Tìm kiếm

Thứ Tư, 29 tháng 4, 2009

Trại giam Cái Tàu (Cà Mau):"Ngài giám thị" biến trại giam thành…"con nợ"

"Xí phần" đất công lên tới... 14.000m2
Khi tỉnh Cà Mau chưa được tách ra, năm 1995, UBND tỉnh Minh Hải ban hành quyết định thu hồi đất của Xí nghiệp Dược phẩm tại xã Khánh An để giao 350ha đất cho Trại giam Cái Tàu thuộc Công an tỉnh Minh Hải. Sau đó, Trại giam Cái Tàu được chuyển cho Cục V26 thuộc Bộ Công an quản lý. Khi ấy, ông Trần Hoàng Thọ giữ chức giám thị Trại giam Cái Tàu.
Làm giám thị trại giam được một thời gian, người dân U Minh luôn tôn sùng ông bởi họ cho rằng ông Hai Thọ đã làm thay da đổi thịt vùng đất trũng phèn. Tuy nhiên, sau hơn chục năm nắm quyền ở đây, ông Thọ đã bị tố cáo để xảy ra nhiều sai phạm nên tháng 8/2007, Bộ Công an đã ban hành quyết định thành lập đoàn thanh tra xác minh sự việc.
Mới đây, Thượng tướng Nguyễn Khánh Toàn - Thứ trưởng Bộ Công an - đã chính thức ký kết luận thanh tra xung quanh tiêu cực của ông Trần Hoàng Thọ với hàng loạt sai phạm.

Theo kết luận, tháng 11/1998, ông Thọ chỉ đạo cho Huỳnh Tố A - Phó giám thị Trại giam Cái Tàu - ký biên bản bàn giao 70ha đất cho Trung tâm Giáo dục Lao động và xã hội tỉnh Cà Mau và 3ha để Lâm Ngư trường công ích U Minh 3 xây dựng trụ sở làm việc. Qua thanh tra đã phát hiện khi tiến hành bàn giao đất cho Lâm Ngư trường công ích U Minh 3, ông Thọ đã để lại một phần đất giáp với cơ quan để làm nhà ở.

Tháng 4/2006, ông Thọ làm thủ tục đề nghị UBND huyện U Minh (Cà Mau) cấp cho ông hơn 14.000m2 đất được “xí phần”. Tháng 5/2006, UBND huyện U Minh đã ký quyết định số 201/QĐ-UBND “sổ đỏ” cho ông Thọ với diện tích 14.311m2, trong đó có 300m2 đất thổ cư và 14.011m2 đất vườn. Khi cầm được “sổ đỏ” trong tay, “ngài giám thị” đã cho xe ủi đất, cất nhà trên khu đất thuộc đất an ninh quốc phòng.



Đoàn Thanh tra của Bộ Công an đề nghị ông Thọ phải trả lại toàn bộ diện tích trên. Thanh tra Bộ Công an cũng khẳng định rằng việc cấp đất cho hai đơn vị là thực hiện theo ý kiến chỉ đạo của UBND tỉnh Cà Mau nhưng ông Trần Hoàng Thọ không báo cáo với Cục V26 và cố ý để lại hơn 14.000m2 đất là sai quy định. Do đó, UBND huyện U Minh đã ra quyết định hủy “sổ đỏ” đã cấp sai quy định cho “người hùng” Hai Thọ. Những “khuyết điểm” này đã bị Thanh tra Bộ Công an phát hiện nhưng “ngài giám thị” vẫn ung dung về hưu ở tuổi 62 mà không bị một quyết định kỷ luật nào?



Rút quỹ tiền tỷ cho tư lợi cá nhân




Ngoài việc “xí” đất quốc phòng để dưỡng già, ông Thọ còn có biểu hiện tư lợi cá nhân. Theo quy định, việc bán hàng trong căng tin của đơn vị phải giao cho phân trại tự quản lý thực hiện bởi hàng tháng căng tin thu lợi số tiền khá lớn. Với chức trách giám thị trại giam, ông Thọ cho vợ là bà Nguyễn Thị Cần và con là Trần Hoàng Phong tham gia bán hàng.



Để tạo thu nhập cho trại giam, Cục V26 thống nhất cho nơi đây nuôi tôm thiên nhiên để tăng nguồn thu nhập. Có lần khi thu hoạch tôm, ông Thọ dẫn vợ đi cùng lấy 2 thùng tôm (25-30kg/thùng - 3 triệu/thùng) của đơn vị về nhà sử dụng.



Đặc biệt, từ năm 1996 đến năm 2000, ông Thọ biến trại tạm giam thành… "con nợ" của vợ ông. Do quản lý vô nguyên tắc, ông Thọ chỉ đạo bộ phận hậu cần vay tiền của nhiều người nhưng không báo cáo với Cục V26, trong đó có vay của… vợ ông là bà Nguyễn Thị Cần. Khi đoàn thanh tra làm việc, ông Thọ không giải trình được vay tiền sử dụng vào việc gì, thanh toán ra sao.

Không chỉ vậy, khi Đoàn Thanh tra Bộ Công an làm việc còn phát hiện từ tháng 1/2002 đến tháng 11/2003, ông Thọ chỉ đạo cho bộ phận kế toán 7 lần rút tiền chi cho vợ, con với số tiền hơn 2,3 tỷ đồng. Qua các chứng từ kế toán cũng không thể hiện rõ tiền chi cho vợ, con ông vào việc gì. Đến nay mặc dù đoàn thanh tra đã phát hiện nhưng ông Thọ vẫn chưa khắc phục. Ngoài ra, trước khi nghỉ hưu, ông Thọ còn “hô biến” chiếc bồn Inox, máy phát điện, bàn, tủ của đơn vị về nhà riêng và chỉ đạo cấp dưới thanh lý 2 máy cày, 1 máy xới trị giá 60 triệu đồng nhưng không nộp quỹ. Trong kết luận của Bộ Công an do Thượng tướng Nguyễn Khánh Toàn ký đã đề nghị lãnh đạo Cục V26 làm rõ và kiểm điểm trách nhiệm của ông Trần Hoàng Thọ cùng các cán bộ có liên quan. Đồng thời nhanh chóng thu hồi triệt để số tiền ông Thọ rút của đơn vị gửi cho vợ con và đề xuất hình thức kỷ luật cán bộ sai phạm theo quy định.




Mashable!

Bổ sung Phụ lục 10 cho Quyết định 1420/2004/QĐ-BTM về CO mẫu D

Ngày 24/10/2007, Bộ Công Thương đã ban hành Quyết định số 007/2007/QĐ-BCT bổ sung Quyết định số 1420/2004/QĐ-BTM ngày 04 tháng 10 năm 2004 của Bộ trưởng Bộ Thương mại về việc ban hành Quy chế cấp Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa của Việt Nam Mẫu D để hưởng các ưu đãi theo “Hiệp định về Chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) để thành lập Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (AFTA)". Quyết định này bổ sung Phụ lục 10 cho Quyết định 1420/2004/QĐ-BTM và có hiệu lực sau 15 ngày kể từ ngày đăng Công báo.

Hội Sở hữu trí tuệ Việt Nam và Cục Sở hữu trí tuệ tổ chức toạ đàm đóng góp ý kiến sửa đổi Luật SHTT

Ngày 12/4/2008, Hội Sở hữu trí tuệ Việt Nam (VIPA) và Cục Sở hữu trí tuệ (NOIP) đã phối hợp tổ chức toạ đàm với chủ đề: đóng góp ý kiến về việc sửa đổi Luật Sở hữu trí tuệ và một số vấn đề liên quan đến nhãn hiệu.



Tham gia Đoàn chủ tịch gồm có : TS. An Khang,Chủ tịch Hội Sở hữu trí tuệ Việt Nam,Ông Trần Việt Hùng,Cục trưởng Cục Sở hữu trí tuệ, Ông Đỗ Thượng Ngãi, Phó Chủ tịch Hội Sở hữu trí tuệ Việt Nam,Chủ tịch Chi hội các đại diện sở hữu trí tuệ, Ông Lê Xuân Thảo,Uỷ viên thường vụ Hội Luật gia Việt Nam,Chủ tịch Công ty sở hữu trí tuệ INVENCO.

Ông Hoàng Văn Tân, Phó Cục trưởng Cục Sở hữu trí tuệ và lãnh đạo một số đơn vị chức năng của Cục Sở hữu trí tuệ cùng tham dự.

Đây là một hình thức sinh hoạt thường kỳ được tổ chức hàng năm với sự tham gia tích cực của các hội viên thuộc Chi hội các đại diện sở hữu trí tuệ với nhiều nội dung bổ ích và thiết thực nhằm tăng cường phối hợp hoạt động giữa VIPA và NOIP.

Phát biểu tại buổi toạ đàm,Ông Trần Việt Hùng,Cục trưởng Cục Sở hữu trí tuệ nhấn mạnh tầm quan trọng của chủ đề buổi toạ đàm năm nay nhằm đề xuất những nội dung cần thiết và cấp bách có liên quan đến việc sửa đổi và điều chỉnh lại một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ. Buổi toạ đàm là cơ hội tốt để trao đổi và thu thập ý kiến của các Hội viên Hội Sở hữu trí tuệ Việt Nam liên quan đến chủ đề này nhằm tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về sở hữu trí tuệ của Việt Nam.

Ông Lê Xuân Thảo đã trình bày tham luận tập trung vào một số nội dung của Luật Sở hữu trí tuệ cần được sửa đổi và điều chỉnh lại cho phù hợp với tình hình thực tiễn.

Các ý kiến phát biểu tại buổi toạ đàm đều nhất trí cho rằng sự cần thiết và tính cấp bách phải sửa đổi Luật Sở hữu trí tuệ,đặc biệt là điều chỉnh lại một số quy định liên quan đến vấn đề bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ.

TS. An Khang,Chủ tịch Hội Sở hữu trí tuệ Việt Nam ( thứ hai từ phải sang)

Ông Trần Việt Hùng,Cục trưởng Cục Sở hữu trí tuệ (thứ hai từ trái sang)

Ông Đỗ Thượng Ngãi,Phó Chủ tịch Hội SHTT Việt Nam (thứ nhất từ trái sang)

Ông Lê Xuân Thảo,Chủ tịch Công ty SHTT INVENCO (thứ nhất từ phải sang)

Các đại biểu tham dự toạ đàm

Lấy ý kiến đối với Dự thảo Luật thi hành án dân sự

Trên cơ sở Nghị quyết số 11/2007/QH12 ngày 21/11/2007 của Quốc hội Khoá XII về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ Khoá XII (2007-2011) và năm 2008, Dự án Luật thi hành án dân sự được đưa vào chương trình chính thức của năm 2008 với tiến độ trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ ba (dự kiến tổ chức vào tháng 5/2008) và trình Quốc hội thông qua tại Kỳ họp thứ tư (dự kiến tổ chức vào tháng 10/2008). Triển khai Nghị quyết trên, ngày 31/01/2008, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 569/2008/UBTVQH 12 về việc thành lập Ban soạn thảo Dự án Luật thi hành án dân sự do Bộ trưởng Bộ Tư pháp làm Trưởng Ban.

Dự thảo Luật thi hành án dân sự có 9 chương, 207 điều quy định về hoạt động đưa các bản án, quyết định của Toà án và các cơ quan có thẩm quyền ra để thi hành, quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án, người phải thi hành án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được thực thi trong thực tế, do đó, liên quan trực tiếp đến nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân, nhiều mặt của đời sống kinh tế, xã hội. Để các quy định của Luật có tính khả thi, phù hợp với thực tiễn sau khi được ban hành, Bộ Tư pháp xin giới thiệu và đăng toàn văn Dự thảo Luật thi hành án dân sự trên Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp (Mục Lấy ý kiến về Dự thảo VBQPPL) để lấy ý kiến của cá nhân, tổ chức

Lấy ý kiến Dự thảo Luật Quốc tịch Việt Nam (sửa đổi)

Thực hiện Nghị quyết số 11/2007/QH12 ngày 21/11/2007 của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khoá XII (2007 - 2011) và năm 2008 và được sự phân công của Thủ tướng, Bộ Tư pháp đã chủ trì, phối hợp với các cơ quan hữu quan thành lập Ban soạn thảo Dự án Luật Quốc tịch Việt Nam (sửa đổi) gồm đại diện của Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Chính phủ, Uỷ ban Đối ngoại của Quốc hội, Bộ Ngoại giao, Bộ Công an và một số chuyên gia, nhà khoa học trong lĩnh vực luật quốc tịch do Bộ trưởng Bộ Tư pháp làm Trưởng ban. Trong thời gian qua, Ban soạn thảo đã khẩn trương tiến hành xây dựng Dự án Luật Quốc tịch Việt Nam (sửa đổi).

Bộ Tư pháp xin trân trọng đăng toàn văn Dự thảo Luật Quốc tịch Việt Nam (sửa đổi) trên Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp (Mục Lấy ý kiến về Dự thảo VBQPPL) để lấy ý kiến đóng góp của cá nhân, tổ chức.

Lấy ý kiến về Dự thảo Luật Đăng ký giao dịch bảo đảm

Thực hiện Nghị quyết số 11/2007/QH12 ngày 21/11/2007 của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khoá XII (2007 - 2011) và năm 2008, được sự phân công của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tư pháp đã chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan thành lập Ban soạn thảo Dự án Luật Đăng ký giao dịch bảo đảm. Trong thời gian qua, Ban soạn thảo đã khẩn trương chỉ đạo và tổ chức việc nghiên cứu, xây dựng Dự án Luật Đăng ký giao dịch bảo đảm.

Bộ Tư pháp xin giới thiệu: Toàn văn dự thảo Luật Đăng ký giao dịch bảo đảm trên Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp và nội dung cơ bản của dự thảo để lấy ý kiến đóng góp của các cá nhân, tổ chức.

Thông điệp của Tổng Giám đốc Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới nhân Ngày Sở hữu trí tuệ thế giới 2008

Ngày Sở hữu trí tuệ thế giới đang nhanh chóng được mọi người biết đến một cách rộng rãi. Kể từ khi có Ngày này cách đây 8 năm,ngày càng có nhiều Chính phủ và các tổ chức quốc tế cùng tham gia với WIPO tổ chức các hoạt động kỷ niệm vào ngày 26 tháng 4 hằng năm.Mọi người có thể thắc mắc: điều gì khiến cho sở hữu trí tuệ thu hút được sự quan tâm như vậy.

Họ có thể tự hỏi rằng các công trình là đối tượng của quyền tác giả,các sáng chế,kiểu dáng công nghiệp hay nhãn hiệu có ý nghĩa như thế nào đối với các vấn đề cấp thiết như: làm thế nào để ngăn chặn sự nóng lên của trái đất; hoặc các vấn đề làm tăng hương vị cho cuộc sống như xem các môn thể thao yêu thích tại đấu trường Ô-lim-pic năm nay? Câu trả lời là nếu không có quyền sở hữu trí tuệ,hàng loạt công nghệ mới để giải quyết các vấn đề toàn cầu có thể không bao giờ được tạo ra,và do đó,các sự kiện thể thao trọng đại khiến cho chúng ta hào hứng và đoàn kết sẽ không được phát sóng đến mọi nhà trên phạm vi toàn cầu.Trong Ngày Sở hữu trí tuệ thế giới,chúng ta không chỉ tôn vinh sự sáng tạo vĩ đại của nhân loại mà còn tôn vinh cả việc quyền sở hữu trí tuệ đã giúp nuôi dưỡng và thúc đẩy sự sáng tạo,làm cho nó trở thành động lực quan trọng đối với sự phát triển kinh tế,văn hóa và xã hội.Sự khéo léo của con người đã đưa chúng ta từ sáng chế ra chiếc bánh xe đầu tiên đến những chuyến bay hết sức thoải mái và đến thế hệ mới nhất của công nghệ nhiên liệu sạch. Nó cũng đã giúp chúng ta từ việc sáng tạo các hình vẽ trên tường trong hang động,đến các ấn phẩm và tiếp đến là Internet - điều kỳ diệu đã đặt thế giới dưới mười đầu ngón tay của chúng ta. Sự khéo léo đã mang lại cho chúng ta sự tiến bộ kỹ thuật,cho phép vận động viên ngày càng nhảy cao hơn,cầu thủ bóng đá sút ngày càng xa hơn và hàng triệu người có sức khỏe tốt hơn,những điều mà chỉ cách đây vài thế hệ,chúng ta không thể tưởng tượng ra được. WIPO cam kết sử dụng sở hữu trí tuệ như một công cụ nhằm khai thác và làm tăng sức sáng tạo và đổi mới của con người để người dân của các nước,các cộng đồng có thể chia sẻ thành quả sáng tạo của mình.

Và vì vậy,vào Ngày Sở hữu trí tuệ thế giới,chúng ta hãy bày tỏ sự kính trọng đối với các nhà sáng chế và các nghệ sỹ,cả những người đóng góp nhiều cũng như ít,bởi họ đã làm giàu cuộc sống của chúng ta với những trái ngọt ý tưởng đổi mới và tư duy sáng tạo của họ. Và chúng ta cần ghi nhớ là tại sao các quyền sở hữu trí tuệ của họ,các quyền mà họ đã có được bằng trí tuệ tập thể và tài năng cá nhân,lại xứng đáng với sự cảm phục,sự bảo vệ và sự tôn trọng của chúng ta.

Hiệp định chung về thuế quan và thương mại - GATT

1. Hiệp định Chung về Thuế quan và Thương mại 1994 ("GATT 1994") bao gồm:

a) các quy định quy định của Hiệp định Chung về Thuế quan và Thương mại, ký ngày 30 tháng 10 năm 1947, phụ lục của Văn kiện Cuối cùng Thông qua tại Phiên bế mạc Kỳ họp lần thứ Hai của Uỷ ban trù bị của Hội nghị Liên hợp quốc về Thương mại và Việc làm (ngoại trừ Nghị định thư về Việc áp dụng Tạm thời), như đã điều chỉnh, sửa đổi hoặc thay thế bằng các thuật ngữ của các văn bản pháp luật đã có hiệu lực trước ngày có hiệu lực của Hiệp định WTO;

b) các quy định quy định của các văn bản pháp luật được trình bày dưới đây đã có hiệu lực theo GATT 1947 trước ngày có hiệu lực của Hiệp định WTO:

(i) các nghị định thư và chứng nhận liên quan đến các nhượng bộ thuế quan;

(ii) các nghị định thư về sự gia nhập (loại trừ các các quy định: (a) liên quan đến việc áp dụng tạm thời và việc huỷ bỏ của áp dụng tạm thời; và (b) với điều kiện là Phần II của GATT 1947 sẽ được áp dụng một cách tạm thời với phạm vi đầy đủ nhất không mâu thuẫn với luật pháp hiện hành tại thời điểm ban hành Nghị định thư);

(iii) các quyết định về các miễn trừ đã được thừa nhận theo Điều XXV của GATT 1947 và vẫn có hiệu lực tại thời điểm Hiệp định WTO có hiệu lực1;

(iv) các quyết định khác về Các bên ký kết GATT 1947;

a) Các Bản diễn giải được trình bày dưới đây:

(i) Bản Diễn giải về cách hiểu Điều II: 1 (b) của Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại 1994;

(ii) Bản Diễn giải về cách hiểu Điều XVII của Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại 1994;

(iii) Bản Diễn giải các quy định về Cán cân thanh toán theo Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại 1994;

(iv) Bản Diễn giải về cách hiểu Điều XXIV của Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại 1994;

(v) Bản Diễn giải về việc Miễn trừ các Nghĩa vụ của Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại 1994;

(vi) Bản Diễn giải về các hiểu Điều XXVIII của Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại 1994; và

d) Nghị định thư Marrakesh về GATT 1994.

2. Các Ghi chú giải thích:

a) Liên quan đến “bên ký kết” trong các quy định của GATT 1994 sẽ được hiểu là “Thành viên”. Liên quan đến “bên ký kết kém phát triển” và “bên ký kết phát triển” được hiểu là “Thành viên đang phát triển” và “Thành viên phát triển”. Liên quan đến “Thư ký điều hành” sẽ được hiểu là “Tổng giám đốc WTO”.

b) Liên quan đến Các Bên Ký Kết cùng quy định trong các Điều XV: 1, XV: 2, XV: 8, XXXVIII và các Ghi chú bổ sung Điều XII và XVIII; và trong các quy định quy định về thỏa thuận trao đổi đặc biệt trong Điều XV: 2, XV: 3, XV: 6, XV: 7 và XV: 9 của GATT 1994 sẽ được coi là các tham chiếu trong WTO. Các chức năng khác mà các quy định quy định của GATT 1994 ấn định cho Các Bên Ký Kết sẽ do Hội nghị Bộ trưởng chỉ định.

(i) Nguyên bản của GATT 1994 sẽ bằng tiếng Anh, tiếng Pháp và tiếng Tây Ban Nha.

(ii) Bản tiếng Pháp của GATT 1994 được sửa đổi về những thuật ngữ nêu tại Phụ lục A của văn bản MTN.TNC/41.

(iii) Nguyên bản tiếng Tây Ban Nha của GATT 1994 sẽ là bản trong Quyển IV của các Văn bản Cơ bản và một loạt các Tài liệu Chọn lọc, là đối tượng của các sửa đổi về các thuật ngữ đã được chỉ ra trong Phụ lục B của văn bản MTN.TNC/41.

3. a) Các quy định của Phần II GATT 1994 sẽ không áp dụng cho các biện pháp mà một Thành viên thực hiện theo luật bắt buộc cụ thể, đã được Thành viên đó ban hành trước khi trở thành một bên ký kết GATT 1947, điều đó ngăn cấm việc sử dụng, bán hay cho thuê các tầu biển do nước ngoài đóng hoặc đại tu lại vào các mục đích thương mại giữa các điểm trong vùng nội thủy hoặc trong vùng đặc quyền kinh tế. Việc miễn trừ này áp dụng đối với: (a) việc phục hồi nhanh chóng hay liên tục của một quy định không phù hợp với luật đó; và (b) việc sửa đổi một quy định không phù hợp của luật đó trong phạm vi mà việc sửa đổi không làm giảm sự phù hợp của quy định với Phần II của GATT 1947. Việc miễn trừ này giới hạn ở các biện pháp được thực hiện theo luật pháp đã mô tả ở trên đó là nó được thông báo và định rõ trước ngày có hiệu lực của Hiệp định WTO. Nếu luật đó được sửa đổi sau làm giảm tính phù hợp của nó với Phần II của GATT 1994, thì nó sẽ không thuộc phạm vi điều chỉnh của đoạn này.

b) Hội nghị Bộ trưởng sẽ rà soát lại miễn trừ đó không muộn hơn 5 năm sau ngày có hiệu lực của hiệp định WTO và sau đó cứ 2 năm 1 lần, nếu miễn trừ vẫn còn hiệu lực, xem xét lại các điều kiện hình thành miễn trừ [LHMC1] xem liệu miễn trừ có còn cần thiết không.

c) Một Thành viên có các biện pháp thuộc đối tượng của miễn trừ này hàng năm sẽ đệ trình một thông báo thống kê chi tiết bao gồm 5 năm hải hành trung bình về sự lưu hành thực tế và dự kiến của các tầu biển có liên quan cũng như các thông tin thêm về việc sử dụng, bán, cho thuê hoặc sửa chữa các con tầu liên quan thuộc đối tượng của miễn trừ này.

d) Một Thành viên cho rằng miễn trừ này áp dụng trên tinh thần chứng tỏ một sự hạn chế tương xứng và có đi có lại về việc sử dụng, bán, cho thuê hoặc sửa chữa các con tầu biển được đóng trong lãnh thổ của thành viên viện dẫn miễn trừ, sẽ được tự do giới thiệu một hạn chế như vậy trong thông báo trước cho Hội nghị Bộ trưởng.

e) Miễn trừ này không gây phương hại đối với các giải pháp liên quan đến các khía cạnh cụ thể của luật pháp thuộc phạm vi của miễn trừ này đã được đàm phán trong các hiệp định khu vực hoặc trong các diễn đàn khác.

Bản diễn giải về cách hiểu Điều II: 1 (b) của hiệp định chung về thuế quan và thương mại 1994



Bằng Hiệp định này, các Thành viên thoả thuận như sau:

1. Để đảm bảo tính minh bạch của các nghĩa vụ và quyền hợp pháp theo điểm 1 (b) của Điều II, bản chất và mức độ của bất kỳ “các khoản thuế hay khoản thu khác” áp dụng đối với các mặt hàng chịu thuế trần, như đã đề cập tại các quy định này, sẽ được ghi vào trong các Danh mục nhân nhượng kèm theo GATT 1994 đối lại với mục thuế mà họ áp dụng. Điều này được hiểu rằng việc ghi vào như vậy không thay đổi tính chất pháp lý của “các khoản thuế hay khoản thu khác”.

2. Ngày mà “các khoản thuế hay khoản thu khác” được ràng buộc, cho các mục đích của Điều II, sẽ là 15/4/1994. Do vậy, “các khoản thuế hay khoản thu khác” sẽ được ghi vào trong các Danh mục với các mức độ đang áp dụng vào ngày đó. Tại các ngày sau đó việc đàm phán lại về một nhượng bộ hay đàm phán về một nhượng bộ mới về ngày áp dụng cho mục thuế đang được đề cập đến sẽ trở thành ngày hợp nhất của nhượng bộ mới trong Danh mục thích hợp. Tuy vậy, ngày ký kết văn bản mà một nhượng bộ về bất kỳ mục thuế đặc biệt nào lần đầu tiên hợp nhất vào trong GATT 1947 hoặc GATT 1994 sẽ cũng tiếp tục được ghi vào cột 6 của các Danh mục Giấy tờ Thất lạc.

3. “Các khoản thuế hay khoản thu khác” sẽ được ghi đối với tất cả các ràng buộc thuế quan.

4. Một mục thuế trước đó là đối tượng của một nhượng bộ, mức độ của “các khoản thuế hay khoản thu khác” đã ghi trong Danh mục thích hợp sẽ không được cao hơn mức đã đạt được tại thời điểm hợp nhất đầu tiên của việc nhượng bộ trong Danh mục đó. Nó sẽ được mở cho bất kỳ thành viên nào không thừa nhận sự tồn tại của một “khoản thuế hay khoản thu khác”, bởi vì rằng không có “khoản thuế hay khoản thu khác” như vậy tồn tại ở thời điểm bắt buộc đầu tiên của mục thuế đang được bàn đến, cũng như sự phù hợp của mức độ được ghi nhận của bất kỳ “khoản thuế hay khoản thu khác” với mức trần trước đó, đối với khoảng thời gian 3 năm sau ngày có hiệu lực của Hiệp định WTO hoặc 3 năm sau ngày cung cấp cho Tổng Giám đốc của WTO về văn bản hợp nhất Danh mục đang được bàn đến trong GATT 1994, nếu đó là một thời điểm muộn hơn.

5. Việc ghi “các khoản thuế hay khoản thu khác” vào các Danh mục là không gây phương hại đến sự phù hợp với các quyền và nghĩa vụ theo GATT 1994 khác với các quyền và nghĩa vụ bị ảnh hưởng bởi đoạn 4. Tất cả các Thành viên bảo lưu quyền không thừa nhận, tại bất kỳ thời điểm nào, sự phù hợp của bất kỳ “khoản thuế hay khoản thu khác” với các nghĩa vụ như vậy.

6. Với các mục đích của Cách hiểu này, các quy định của các Điều XXII và XXIII của GATT 1994 như đã được trình bày tỉ mỉ và áp dụng bởi Cách hiểu giải quyết tranh chấp sẽ được áp dụng.

7. “Các khoản thuế hay khoản thu khác” mà một Danh mục bỏ sót tại thời điểm cung cấp văn bản hợp nhất Danh mục đang được bàn đến trong GATT 1994 với, cho đến ngày có hiệu lực của Hiệp định WTO, Tổng Giám đốc đối với các bên ký kết của GATT 1947 hoặc, sau đó, với Tổng giám đốc của WTO, sẽ không bổ xung sau vào Danh mục đó và bất kỳ “khoản thuế hay khoản thu khác” được ghi tại một mức thấp hơn mức đang phổ biến vào thời điểm áp dụng sẽ không được khôi phục lại mức đang phổ biến trừ khi các khoản tính thêm hoặc các khoản thu như vậy được hình thành trong vòng 6 tháng kể từ ngày cung cấp văn bản.

Quyết định trong đoạn 2 đề cập đến thời điểm áp dụng cho mỗi nhượng bộ với các mục đích của đoạn 1(b) của Điều II của GATT 1994 thay thế quyết định liên quan đến thời điểm áp dụng được thực hiện vào 26/3/1980 (BISD 27S/24).

Cách hiểu về Diễn giải Điều xvii của GATT 1994

Các Thành viên,

Lưu ý rằng Điều XVII quy định các nghĩa vụ cho các Thành viên liên quan đến các hoạt động của các doanh nghiệp thương mại nhà nước đã được đề cập đến trong đoạn 1 của Điều XVII, các nghĩa vụ này cần phải phù hợp với các nguyên tắc chung không phân biệt đối xử đã nêu trong GATT 1994 đối với các biện pháp của chính phủ tác động lên hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp tư nhân;

Lưu ý thêm rằng các Thành viên phải tuân thủ các nghĩa vụ của mình theo GATT 1994 liên quan đến các biện pháp của chính phủ tác động lên các doanh nghiệp thương mại nhà nước;

Thừa nhận rằng cách hiểu này không gây phương hại đối với các nguyên tắc cơ bản được quy định trong Điều XVII;

Dưới đây thoả thuận như sau:

1. Để đảm bảo sự minh bạch của các hoạt động của các doanh nghiệp thương mại nhà nước, các Thành viên sẽ thông báo về các doanh nghiệp đó cho Uỷ ban về Thương mại và Hàng hóa, để một ban công tác được thành lập theo đoạn 5 rà soát lại theo định nghĩa như sau:

“Các doanh nghiệp của chính phủ hoặc phi chính phủ, bao gồm cả các ban thị trường được ban những đặc quyền gồm các quyền theo luật định hay do hiến pháp quy định, mà khi thực hiện các quyền trên thì gây ảnh hưởng lên mức độ hoặc phương hướng xuất nhập khẩu thông qua hoạt động mua bán của mình. ”

Yêu cầu thông báo này không áp dụng cho việc nhập khẩu các sản phẩm dành cho việc sử dụng ngay hay cuối cùng được chính quyền sử dụng hoặc dành cho một doanh nghiệp như đã nêu ở trên sử dụng.

2. Mỗi Thành viên sẽ tiến hành việc rà soát chính sách của mình liên quan đến việc đệ trình thông báo về các doanh nghiệp thương mại nhà nước cho Uỷ ban Thương mại Hàng hóa trên cơ sở có xem xét đến các qui định của Bản diễn giải này. Để tiến hành việc rà soát như vậy, mỗi Thành viên nên lưu ý đến việc cần thiết bảo đảm sự minh bạch một cách tối đa trong các thông báo của mình để cho phép đánh giá một cách rõ ràng cách thức hoạt động của các doanh nghiệp được thông báo và ảnh hưởng của hoạt động của các doanh nghiệp đó đối với thương mại quốc tế.

3. Các thông báo sẽ được soạn theo bảng câu hỏi về thương mại nhà nước được thông qua vào 24/5/1960 (BISD 9S/184-185), cần hiểu rằng các thành viên phải thông báo về các doanh nghiệp được đề cập đến trong đoạn 1 cho dù việc xuất khẩu hay nhập khẩu có được thực hiện trên thực tế hay không.

4. Bất kỳ Thành viên nào có lý do để tin rằng một Thành viên khác không đáp ứng nghĩa vụ thông báo một cách đầy đủ đều có thể nêu vấn đề đó với Thành viên có liên quan. Nếu vấn đề này không được giải quyết một cách thỏa đáng thì Thành viên đó có thể thông báo đối kháng cho Hội đồng Thương mại Hàng hóa, để ban công tác được thành lập theo đoạn 5 xem xét, đồng thời thông cho Thành viên có liên quan.

5. Một ban công tác sẽ được thành lập, thay mặt Hội đồng Thương mại Hàng hóa, để xem xét các thông báo và thông báo đối kháng. Căn cứ vào việc xem xét này và với sự bảo lưu đoạn 4(c) của Điều XVII, Hội đồng Thương mại Hàng hóa có thể đưa ra các khuyến nghị về tính đầy đủ của các thông báo và sự cần thiết cung cấp thêm thông tin. Căn cứ vào các thông báo đã nhận được, ban công tác cũng sẽ xem xét lại tính đầy đủ của bảng câu hỏi được đề cập ở trên về thương mại nhà nước và phạm vi hoạt động của các doanh nghiệp thương mại nhà nước đã thông báo theo đoạn 1. Ban công tác cũng sẽ xây dựng một danh sách minh họa chỉ ra các loại quan hệ giữa các chính phủ và các doanh nghiệp, và các loại hoạt động có thể phù hợp với mục đích của Điều XVII mà các doanh nghiệp đó tham gia. Có nghĩa là Ban Thư ký sẽ cung cấp một tài liệu nền tảng chung cho ban công tác về các hoạt động của các doanh nghiệp thương mại nhà nước khi các doanh nghiệp này có liên quan đến thương mại quốc tế. Tất cả các Thành viên nào muốn làm việc cho ban công tác đều có thể tham gia. Ban công tác sẽ họp trong vòng một năm kể từ ngày có hiệu lực của Hiệp định WTO và sau đó ít nhất một lần một năm. Ban công tác phải nộp báo cáo thường niên cho Hội đồng Thương mại Hàng hoá.1



h h



h






Cách hiểu về các Điều khoản Cán cân thanh toán của GATT 1994





h h



h

Các thành viên,

Thừa nhận rằng các quy định của Điều XII và XVIII:B của GATT 1994 và Tuyên bố về các Biện pháp Thương mại Thực hiện cho các Mục đích Cán cân thanh toán được thông qua vào 28/11/1979 (BISD 26S/205-209, được đề cập trong Cách hiểu này như “Tuyên bố 1979”) và để làm rõ các quy định như vậy1

Dưới đây thoả thuận như sau:

Việc áp dụng các biện pháp

1. Các Thành viên xác nhận cam kết của họ thông báo một cách công khai, ngay khi có thể, các lịch trình cho việc xoá bỏ các biện pháp hạn chế nhập khẩu được thực hiện cho các mục đích cán cân thanh toán. Điều này được hiểu rằng các lịch trình như vậy có thể sửa đổi cho thích hợp có tính đến các thay đổi trong tình hình cán cân thanh toán. Bất kỳ khi nào một lịch trình không được một Thành viên thông báo một cách công khai, Thành viên đó sẽ đưa ra sự biện hộ cho các lý do về việc đó.

2. Các Thành viên xác nhận cam kết của họ dành ưu tiên cho các biện pháp ít gây tổn hại nhất cho thương mại. Các biện pháp như vậy (đã đề cập đến trong cách hiểu này như “các biện pháp dựa vào giá cả”) sẽ được hiểu bao gồm nhập khẩu tính thêm, các yêu cầu nhập khẩu uỷ thác hoặc các biện pháp thương mại tương đương với tác động lên giá hàng hoá nhập khẩu. Điều này được hiểu rằng, không chống lại các quy định của Điều II, các biện pháp dựa vào giá cả được thực hiện cho các mục đích cán cân thanh toán có thể được áp dụng bởi một Thành viên trong việc vượt quá các khoản thuế được quy định trong Danh mục của Thành viên đó. Hơn nữa, Thành viên đó sẽ chỉ ra khối lượng mà biện pháp dựa vào giá cả đó vượt quá mức thuế trần một cách rõ ràng và riêng rẽ theo các thủ tục thông báo của Cách hiểu này.

3. Các Thành viên sẽ cố gắng tránh việc áp đặt các hạn chế định lượng với mục đích cán cân thanh toán trừ phi, bởi vì tình hình cán cân thanh toán bị nguy cấp, các biện pháp dựa vào giá cả không thể ngăn cản việc giảm giá đột ngột trong tình thế thanh toán bên ngoài. Trong các trường hợp này một Thành viên áp dụng các hạn chế định lượng, Thành viên đó sẽ đưa ra sự biện hộ cho các lý do tại sao các biện pháp dựa vào giá cả không phải là công cụ thích hợp để giải quyết đối với tình hình cán cân thanh toán. Một Thành viên duy trì các hạn chế định lượng sẽ chỉ ra trong các tham vấn liên tiếp sự tiến bộ đã đạt được trong việc giảm một cách rõ rệt tác động và ảnh hưởng hạn chế của các biện pháp như vậy. Điều này được hiểu rằng không có quá một loại biện pháp hạn chế được thực hiện vì các mục đích cán cân thanh toán có thể được áp dụng cho cùng một sản phẩm.

4. Các Thành viên xác nhận rằng các biện pháp hạn chế nhập khẩu được thực hiện vì các mục đích cán cân thanh toán có thể chỉ được áp dụng để kiểm tra mức độ tổng quát của nhập khẩu và không thể vượt quá những gì cần thiết để xác định tình hình cán cân thanh toán. Để giảm đến mức tối thiểu bất kỳ ảnh hưởng của sự bảo hộ ngẫu nhiên nào, một Thành viên sẽ thi hành các hạn chế với một cách rõ ràng minh bạch. Các cơ quan có thẩm quyền của Thành viên nhập khẩu sẽ cung cấp đầy đủ lý lẽ biện hộ khi sử dụng các tiêu chí để xác định sản phẩm nào là đối tượng của việc hạn chế. Như đã nêu trong đoạn 3 của Điều XII và đoạn 10 của Điều XVIII, các Thành viên có thể, trong trường hợp các sản phẩm thiết yếu nào đó, loại trừ hoặc hạn chế việc áp dụng của các khoản tính thêm đã được áp dụng triệt để hoặc các biện pháp khác đã được áp dụng cho các mục đích cán cân thanh toán. Thuật ngữ “các sản phẩm thiết yếu” sẽ được hiểu theo nghĩa là các sản phẩm mà đáp ứng được các nhu cầu tiêu dùng cơ bản hoặc góp phần cho nỗ lực của Thành viên để cải thiện tình hình cán cân thanh toán của họ, như là hàng hoá vốn hoặc các nhiên liệu cần thiết cho sản xuất. Trong các hạn chế định lượng hoặc hành chính, một Thành viên sẽ sử dụng việc cấp giấy phép theo ý mình chỉ khi không thể được và sẽ đưa ra sử dụng dần dần từng bước một cách tích cực. Sự biện hộ phù hợp sẽ được đưa ra khi các tiêu chí được sử dụng để xác định các giá trị hoặc số lượng nhập khẩu cho phép.

Các thủ tục đối với các tham vấn về cán cân thanh toán

5. Uỷ ban về các Hạn chế của Cán cân Thanh toán (trong Cách hiểu này được gọi là “Uỷ ban”) sẽ tiến hành các tham vấn để rà soát lại tất cả các biện pháp hạn chế nhập khẩu được thực hiện đối với các mục đích cán cân thanh toán. Thành viên của Uỷ ban được mở cho tất cả các Thành viên muốn tham gia. Uỷ ban sẽ tuân theo các thủ tục tham vấn về các hạn chế đối với cán cân thanh toán đã được thông qua ngày 28/4/1970 (BISD 18S/48-53, đã được đề cập đến trong các hiểu này như “các thủ tục tham vấn đầy đủ”), dựa vào các quy định quy định dưới đây.

6. Một Thành viên áp dụng các hạn chế mới hoặc tăng mức độ chung của các hạn chế hiện hành của họ bằng cách làm tăng mức thực tế của các biện pháp sẽ tiến hành đàm phán với Uỷ ban trong vòng 4 tháng kể từ khi thông qua các biện pháp đó. Thành viên thông qua các biện pháp như vậy có thể được yêu cầu tổ chức tham vấn theo đoạn 4(a) của Điều XII hay đoạn 12(a) của Điều XVIII khi thích hợp. Nếu không có yêu cầu như vậy được đề nghị, Chủ tịch Uỷ ban sẽ mời Thành viên tổ chức cuộc tham vấn. Các nhân tố có thể được xem xét trong cuộc tham vấn sẽ bao gồm, giữa các vấn đề khác, việc giới thiệu về các hình thức mới của các biện pháp hạn chế đối với các mục đích cán cân thanh toán, hoặc việc gia tăng mức độ hay sản phẩm thuộc phạm vi của các hạn chế.

7. Tất cả các hạn chế được áp dụng đối với các mục đích cán cân thanh toán sẽ là đối tượng của việc rà soát định kỳ trong Uỷ ban theo đoạn 4(b) của Điều XII hoặc theo đoạn 12 (b) của Điều XVIII, tuỳ theo khả năng của việc thay đổi định kỳ của các tham vấn trong thoả thuận với Thành viên tham vấn hoặc theo đúng bất kỳ thủ tục rà soát cụ thể nào có thể được Đại Hội đồng khuyến nghị.

8. Các cuộc tham vấn có thể được tổ chức theo các thủ tục đơn giản đã được thông qua ngày 19/12/1972 (BISD 20S/47-49, đã được đề cập trong Cách hiểu này như “các thủ tục tham vấn đơn giản”) trong trường hợp của các nước Thành viên kém phát triển nhất hoặc trong trường hợp các nước Thành viên đang phát triển mà đang theo đuổi các nỗ lực tự do hoá phù hợp với danh mục đã được đưa ra Uỷ ban trong các cuộc tham vấn trước đó. Các thủ tục tham vấn đơn giản có thể cũng được sử dụng khi việc Rà soát Chính sách Thương mại của nước Thành viên đang phát triển đã được lên kế hoạch cho cùng năm khi ngày tháng đã được định sẵn cho các cuộc tham vấn. Trong các trường hợp như vậy quyết định khi liệu các thủ tục tham vấn đầy đủ có được sử dụng không sẽ được đưa ra trên cơ sở của các nhân tố đã được liệt kê trong đoạn 8 của Tuyên bố 1979. Trừ trong trường hợp đối với các nước Thành viên kém phát triển nhất, không quá 2 cuộc tham vấn liên tiếp có thể được tổ chức theo các thủ tục tham vấn đơn giản.

Thông báo và Tài liệu

9. Một Thành viên sẽ thông báo cho Đại Hội đồng về việc giới thiệu của hoặc bất kỳ thay đổi nào trong việc áp dụng của các biện pháp nhập khẩu hạn chế được thực hiện đối với các mục đích cán cân thanh toán, cũng như bất kỳ các sự sửa đổi nào trong các thời gian biểu đối với việc loại bỏ các biện pháp như vậy như đã thông báo trong đoạn 1. Những thay đổi quan trọng sẽ phải thông báo trước cho Đại Hội đồng hoặc không chậm hơn 30 ngày sau khi thông báo. ít nhất mỗi năm 1 lần, mỗi Thành viên sẽ sẵn sàng trình Ban Thư ký một thông báo đã được bổ xung, bao gồm tất cả các thay đổi trong các luật, quy chế, tuyên bố chính sách hay thông cáo công cộng, để các Thành viên xem xét. Các thông báo nên bao gồm các thông tin đầy đủ, càng đầy đủ càng tốt, tại mặt bằng dòng thuế, về các biện pháp điển hình đã được áp dụng, các tiêu chí đã sử dụng cho sự quản lý hành chính của họ, sản phẩm bao hàm, và các dòng thương mại chịu tác động.

10. Theo yêu cầu của bất kỳ Thành viên nào, các thông báo có thể bị Uỷ ban xem xét. Các xem xét như vậy sẽ được hạn chế ở việc làm rõ đối với các vấn đề cụ thể đã được thông báo nêu ra hoặc xem xét liệu một cuộc tham vấn theo yêu cầu của đoạn 4(a) của Điều XII hay đoạn 12(a) của Điều XVIII. Các Thành viên có các lý do để tin rằng một biện pháp hạn chế nhập khẩu đã được áp dụng bởi Thành viên khác được thực hiện đối với các mục đích cán cân thanh toán có thể đưa vấn đề ra Uỷ ban. Chủ tịch Uỷ ban sẽ yêu cầu thông tin về biện pháp và thông báo cho tất cả các Thành viên. Không ảnh hưởng tới quyền của bất kỳ thành viên nào của Uỷ ban muốn làm rõ một cách thoả đáng trong quá trình các cuộc tham vấn, các câu hỏi có thể được đệ trình trước để Thành viên tham vấn xem xét.

11. Thành viên tham vấn sẽ chuẩn bị một Tài liệu Cơ sở cho các cuộc tham vấn, thêm vào bất kỳ thông tin nào khác được xem là có liên quan, sẽ bao gồm: (a) một tình hình tổng thể về cán cân thanh toán và các triển vọng, bao gồm sự cân nhắc đối với các nhân tố bên trong và bên ngoài chứa đựng tính thích hợp về tình hình cán cân thanh toán và các biện pháp chính sách nội địa đươc thực hiện để khôi phục tinh thần và nền tảng của sự bền vững; (b) một mô tả đầy đủ các hạn chế đã áp dụng đối với các mục đích cán cân thanh toán, cơ sở luật pháp của họ và các bước được thực hiện làm giảm các ảnh hưởng bảo hộ ngẫu nhiên; (c) các biện pháp được thực hiện từ cuộc tham vấn trước để cởi bỏ các hạn chế nhập khẩu, căn cứ vào các kết luận của Uỷ ban; (d) một kế hoạch cho việc loại bỏ và tiến tới nới lỏng các hạn chế đang tồn tại. Các cuộc tham khảo có thể được thực hiện, khi thích hợp, về thông tin đã cung cấp trong các thông báo hoặc các báo cáo khác đã gửi cho WTO. Theo các thủ tục tham vấn đơn giản, Thành viên tham vấn sẽ đệ trình một bản tuyên bố bằng văn bản bao gồm các thông tin chủ yếu về các nhân tố chứa đựng trong Tài liệu Cơ sở.

12. Ban Thư ký sẽ, với mục đích tạo thuận lợi cho các cuộc tham vấn trong Uỷ ban, chuẩn bị một tài liệu cơ bản xác thực giải quyết các khía cạnh khác biệt của chương trình cho các cuộc tham vấn. Trong trường hợp nước Thành viên đang phát triển, tài liệu của Ban Thư ký sẽ bao gồm tài liệu phân tích và cơ sở thích hợp về sự ngẫu nhiên của môi trường thương mại bên ngoài đối với tình hình cán cân thanh toán và triển vọng của Thành viên tham vấn. Các dịch vụ trợ giúp kỹ thuật của Ban Thư ký sẽ, theo yêu cầu của một nước thành viên đang phát triển, trợ giúp trong việc chuẩn bị tài liệu cho các cuộc tham vấn.

Các Kết luận của các cuộc Tham vấn về Cán cân Thanh toán

13. Uỷ ban sẽ báo cáo về các cuộc tham vấn của họ cho Đại Hội đồng. Khi các thủ tục tham vấn đầy đủ được thực hiện, báo cáo phải trình bày sơ lược các kết luận của Uỷ ban về các nhân tố khác biệt của chương trình cho các cuộc tham vấn, cũng như các cơ sở và lý do mà họ dựa vào. Uỷ ban sẽ nỗ lực đưa vào trong các kết luận của họ các đề suất cho các khuyến nghị nhằm mục đích xúc tiến việc thi hành Điều XII và XVIII:B, Tuyên bố 1979 và Cách hiểu này. Trong các trường hợp đó về các biện pháp mà một thời gian biểu đã đưa ra đối với việc loại bỏ các biện pháp hạn chế được thực hiện đối với các mục đích cán cân thanh toán, Đại hội đồng có thể khuyến nghị rằng, trong khi hành động theo một thời gian biểu như vậy, một Thành viên sẽ phải tuân theo các nghĩa vụ của GATT 1994. Bất kỳ khi nào Đại hội đồng đưa ra các khuyến nghị cụ thể, các quyền và nghĩa vụ của các Thành viên sẽ được xem xét căn cứ vào các khuyến nghị đó. Trong trường hợp thiếu các đề suất cụ thể đối với các khuyến nghị của Đại hội đồng, các kết luận của Uỷ ban phải ghi các quan điểm khác nhau đã được trình bày trong Uỷ ban. Khi các thủ tục tham vấn đơn giản được sử dụng, báo cáo sẽ gồm một bản tóm tắt các yếu tố chính đã được thảo luận trong Uỷ ban và một quyết định về liệu có phải yêu cầu các thủ tục tham vấn đầy đủ.

Cách hiểu về sự Diễn giải Điều XXIV của GATT 1994

Các Thành viên,

Quan tâm đến các quy định của Điều XXIV của GATT 1994;

Thừa nhận rằng từ khi thành lập GATT 1947 các Liên minh thuế quan và các khu vực thương mại tự do đã gia tăng về số lượng và mức độ quan trọng và ngày nay chiếm tỷ lệ đáng chú ý trong thương mại thế giới;

Thừa nhận sự đóng góp vào việc mở rộng của thương mại thế giới có thể được thực hiện bằng sự hội nhập hơn nữa giữa các nền kinh tế của các bên tham gia các hiệp định đó;

Cũng thừa nhận rằng sự đóng góp đó đã gia tăng nếu loại bỏ thuế và các quy định hạn chế về buôn bán mở rộng cho tất cả thương mại giữa các lãnh thổ có chủ quyền, và đã giảm bớt nếu bất kỳ lĩnh vực chính nào của thương mại bị loại trừ;

Tái khẳng định rằng mục đích của các hiệp định đó nên tạo thuận lợi cho thương mại giữa các vùng lãnh thổ có chủ quyền và không nên tăng thêm các hàng rào trong thương mại của các Thành viên khác với các lãnh thổ đó; và trong việc thành lập của họ hay mở rộng các bên với phạm vi có thể lớn nhất tránh việc tạo ra các ảnh hưởng bất lợi về thương mại của các Thành viên khác;

Cũng đã thuyết phục về sự cần thiết tăng cường hiệu lực của vai trò của Uỷ ban Thương mại và hàng hoá trong việc rà soát các hiệp định đã thông báo theo Điều XXIV, bằng việc làm rõ các tiêu chí và thủ tục cho việc đánh giá về các hiệp định mới hoặc các hiệp định đã được mở rộng, và tăng cường tính minh bạch của tất cả các hiệp định Điều XXIV;

Thừa nhận sự cần thiết đối với một cách hiểu chung về các nghĩa vụ của các Thành viên theo đoạn 12 của Điều XXIV;

Dưới đây thoả thuận như sau:

1. Các liên minh thuế quan, các khu vực mậu dịch tự do, và các hiệp định tạm thời dẫn đến việc lập ra một liên minh thuế quan hay một khu vực mậu dịch tự do, để phù hợp với Điều XXIV, phải đáp ứng được, giữa các vấn đề khác, các quy định của các đoạn 5,6,7 và 8 của Điều này.

Điều XXIV:5

2. Sự đánh giá theo đoạn 5 (a) của Điều XXIV đối với tác động chung của thuế và các quy chế khác của thương mại áp dụng trứơc và sau sự thành lập của một liên minh thuế quan đối với các khoản thuế và các khoản thu khác sẽ dựa trên một đánh giá chung về các mức thuế trung bình quan trọng và thuế quan được lựa chọn. Đánh giá đó sẽ dựa trên các số liệu nhập khẩu của giai đoạn tiêu biểu trước đó do liên minh thuế quan cung cấp, về một dòng thuế cơ bản và tại các giá trị và các số lượng, được thành viên sáng lập WTO phân tích thống kê. Ban Thư ký sẽ tính toán các mức thuế trung bình quan trọng và các thuế quan được lựa chọn theo một phương pháp luận đã sử dụng trong việc đánh giá các đề nghị thuế quan trong Vòng Uruguay về Các Thoả thuận Thương mại Đa biên. Với mục đích này, các khoản thuế và các khoản thu khác được thực hiện trong sự cân nhắc sẽ là mức thuế được áp dụng. Điều này đã được thừa nhận rằng với mục đích đánh giá tổng thể về phạm vi ảnh hưởng và các quy chế khác đối với thương mại mà sự xác định số lượng và sự tập hợp gặp khó khăn, việc kiểm tra các biện pháp cá nhân, các quy chế, các sản phẩm và các dòng thương mại bị ảnh hưởng có thể được yêu cầu.

3. “Thời hạn hợp lý” được đề cập đến tại đoạn 5(c) của Điều XXIV sẽ chỉ vượt quá 10 năm trong các trường hợp ngoại trừ. Trong trường hợp mà các Thành viên của một hiệp định tạm thời thấy rằng 10 năm là không đủ thì họ sẽ đưa ra một giải thích đầy đủ về sự cần thiết phải có một giai đoạn dài hơn cho Uỷ ban Thương mại và hàng hoá.

Điều XXIV:6

4. Đoạn 6 của Điều XXIV thiết lập thủ tục để thực hiện khi một Thành viên hình thành một liên minh thuế quan đề nghị tăng mức thuế trần. Thành viên có liên quan đó khẳng định lại thủ tục đề cập trong Điều XXVIII, như đã trình bày kỹ lưỡng trong các hướng dẫn được thông qua ngày 10/11/1980 (BISD 27S/26-28) và trong cách hiểu về sự diễn giải của Điều XXVIII của GATT 1994, phải được bắt đầu trước các nhượng bộ thuế quan được sửa đổi hay rút khỏi vào lúc hình thành một liên minh thuế quan hoặc một hiệp định tạm thời dẫn tới sự hình thành của một liên minh thuế quan.

5. Các thoả thuận này sẽ trở thành những bảo đảm nhằm mục đích đạt được sự thoả mãn chung về việc điều chỉnh đền bù. Trong các thoả thuận như vậy, như yêu cầu của đoạn 6 của Điều XXIV, tài khoản đến hạn sẽ được chấp thuận các giảm thuế về cùng một dòng thuế do các thành phần khác của liên minh thuế quan thực hiện vào lúc thành lập liên minh thuế quan. Nếu các cắt giảm đó không đủ cung cấp việc điều chỉnh đền bù cần thiết, liên minh thuế quan sẽ đề nghị việc bồi thường, mà có thể thực hiện hình thức các cắt giảm thuế quan về các dòng thuế khác. Một đề nghị như vậy sẽ được cân nhắc bởi các Thành viên có các quyền ràng buộc được sửa đổi hoặc rút bỏ. Nếu việc điều chỉnh đền bù vẫn không được chấp nhận, các cuộc thương lượng sẽ được tiếp tục. Nếu, mặc dù các nỗ lực như vậy, hiệp định trong các cuộc thương lượng về sự điều chỉnh đền bù theo Điều XXVIII như đã trình bày kỹ trong Cách hiểu về sự Diễn giải của Điều XXVIII của GATT 1994 không thể đạt được trong một giai đoạn hợp lý kể từ các cuộc thương lượng đầu tiên, liên minh thuế quan sẽ, tuy nhiên, tự do sửa đổi hoặc rút bỏ các nhượng bộ; các Thành viên bị ảnh hưởng sau đó sẽ tự do rút bỏ các nhượng bộ tương đương cơ bản phù hợp với Điều XXVIII.

6. GATT 1994 không quy định nghĩa vụ đối với các Thành viên được hưởng lợi từ việc giảm thuế do bởi sự hình thành của một liên minh thuế quan, hoặc một hiệp định tạm thời dẫn đến việc hình thành liên minh thuế quan, quy định sự điều chỉnh đền bù cho các thành viên của nó.

Rà soát đối với các Liên minh Thuế quan và Khu vực Mậu dịch Tự do

7. Tất cả các thông báo được lập theo đoạn 7(a) của Điều XXIV sẽ được một ban công tác kiểm tra căn cứ vào các quy định liên quan của GATT 1994 và của đoạn 1 của Cách hiểu này. Ban công tác sẽ đệ trình một báo cáo cho Uỷ ban về Thương mại Hàng hoá về những kết quả liên quan. Uỷ ban về Thương mại Hàng hoá có thể có khuyến nghị cho các Thành viên khi thấy thích hợp.

8. Liên quan đến các hiệp định tạm thời, ban công tác có thể đưa ra các khuyến nghị thích hợp trong báo cáo của họ về khung thời gian được đề nghị và về các biện pháp được yêu cầu để hoàn thiện việc hình thành liên minh thuế quan hoặc khu vực mậu dịch tự do. Nếu cần ban công tác có thể cung cấp đánh giá hơn nữa về hiệp định.

9. Các Thành viên là các bên của một hiệp định tạm thời sẽ thông báo những thay đổi thực tế trong kế hoạch và danh mục bao gồm trong hiệp định đó cho Uỷ ban về Thương mại Hàng hoá và, nếu được yêu cầu, Uỷ ban sẽ xem xét các thay đổi.

10. Nếu một hiệp định tạm thời được thông báo theo đoạn 7(a) của Điều XXIV không bao gồm một kế hoạch hay danh mục, mâu thuẫn với đoạn 5 (c) của Điều XXIV, ban công tác sẽ khuyến nghị về một kế hoạch hay danh mục như vậy trong báo cáo của mình. Các bên không duy trì hoặc để có hiệu lực, khi trường hợp có thể, hiệp định đó nếu họ không chuẩn bị sửa đổi nó phù hợp với các khuyến nghị đó. Quy định sẽ được lập ra cho việc rà soát sau đó đối với việc thực hiện các khuyến nghị.

11. Các liên minh thuế quan và các thành viên của khu vực mậu dịch tự do sẽ báo cáo định kỳ cho Uỷ ban về Thương mại Hàng hoá, như đã được các Bên ký kết GATT 1947 vạch ra trong hướng dẫn của họ về Uỷ ban GATT 1947 liên quan đến các báo cáo về các hiệp định khu vực (BISD 18S/38), về hoạt động của hiệp định liên quan. Bất kỳ các thay đổi quan trọng nào và/ hoặc những tiến triển trong các hiệp định sẽ được báo cáo khi chúng xảy ra.

Giải quyết tranh chấp

12. Các quy định của Điều XXII và XXIII của GATT 1994 đã được soạn thảo tỷ mỷ và được áp dụng bởi Cách hiểu Giải quyết Tranh chấp có thể được viện dẫn liên quan tới bất kỳ vấn đề nào nảy sinh từ việc áp dụng các quy định đó của Điều XXIV liên quan tới các liên minh thuế quan, các khu vực mậu dịch tự do hay các hiệp định tạm thời dẫn đến việc hình thành một liên minh thuế quan hay khu vực mậu dịch tự do.

Điều XXIV: 12

13. Mỗi thành viên chịu hoàn toàn trách nhiệm theo GATT 1994 về việc tuân thủ các quy định của GATT 1994, và sẽ thực hiện các biện pháp hợp lý đó khi có thể sẵn sàng đảm bảo sự tuân thủ như vậy bởi các chính phủ địa phương và khu vực và các cơ quan trong lãnh thổ của họ.

14. Các quy định của Điều XXII và XXIII của GATT 1994 đã được soạn thảo tỷ mỷ và được áp dụng bởi Cách hiểu Giải quyết Tranh chấp có thể được viện dẫn đối với các biện pháp ảnh hưởng đến việc tuân thủ của Thành viên được thực hiện bởi các chính phủ địa phương hay khu vực hoặc các cơ quan trong lãnh thổ của một thành viên. Khi Cơ quan Giải quyết Tranh chấp đã quyết định rằng một quy định của GATT 1994 chưa được tuân thủ, Thành viên có trách nhiệm phải thực hiện các biện pháp hợp lý khi có thể sẵn sàng để đảm bảo sự tuân thủ.

15. Mỗi Thành viên thực hiện sự quan tâm ủng hộ phù hợp và có đầy đủ cơ hội cho việc tham vấn liên quan tới bất kỳ các đại diện nào do Thành viên khác cử ra liên quan đến các biện pháp ảnh hưởng tới sự triển khai GATT 1994 được thực hiện trong lãnh thổ của nước sáng lập.

Cách hiểu về Miễn trừ các Nghĩa vụ theo GATT 1994

Các Thành viên dưới đây thoả thuận như sau:

1. Một đề nghị đối với một miễn trừ hoặc một sự gia hạn của một miễn trừ hiện hành sẽ mô tả các biện pháp mà Thành viên đề nghị thực hiện, các mục tiêu chính sách cụ thể mà Thành viên cố gắng theo đuổi và các lý do ngăn cản Thành viên đạt được các mục tiêu chính sách bởi các biện pháp phù hợp với các nghĩa vụ của Thành viên đó theo GATT 1994.

2. Bất kỳ miễn trừ nào có hiệu lực vào ngày có hiệu lực của Hiệp định WTO sẽ chấm dứt, trừ phi đã được mở rộng phù hợp với các thủ tục trên và của Điều IX của Hiệp định WTO, vào ngày hết hiệu lực hoặc 2 năm từ ngày có hiệu lực của Hiệp định WTO, tuỳ thuộc cái nào đến trước.

3. Bất kỳ Thành viên nào cho rằng lợi ích có được theo GATT 1994 đang bị huỷ bỏ hoặc suy yếu do hậu quả của:

(a) việc thất bại của Thành viên đối với ai mà một miễn trừ đã được thừa nhận tuân thủ các quy định hoặc các điều kiện của miễn trừ, hoặc

(b) việc áp dụng một biện pháp phù hợp với các quy định và các điều kiện của miễn trừ.

Có thể viện dẫn các quy định của Điều XXIII của GATT 1994 như đã được trình bày tỷ mỷ và đã được áp dụng bởi Cách hiểu Giải quyết Tranh chấp.

Cách hiểu về Diễn giải Điều XXVIII của GATT 1994

Các Thành viên dưới đây thoả thuận như sau:

1. Với các mục đích của việc sửa đổi hoặc rút bỏ một nhượng bộ, các Thành viên có tỷ lệ xuất khẩu trong tổng kim ngạch xuất khẩu bị ảnh hưởng bởi nhượng bộ cao nhất (ví dụ xuất khẩu sản phẩm đến thị trường của Thành viên sửa đổi hay rút bỏ nhượng bộ) sẽ thấy rằng có một lợi ích cung cấp chính nếu thành viên đó không sẵn sàng có một quyền đàm phán ban đầu hoặc một lợi ích cung cấp chính như đã được nêu tại đoạn 1 của Điều XXVIII. Tuy nhiên đồng ý rằng đoạn đó sẽ được xem xét bởi Uỷ ban về Thương mại Hàng hoá 5 năm kể từ ngày có hiệu lực của Hiệp định WTO nhằm quyết định liệu tiêu chí này đã tác động một cách đầy đủ trong việc đảm bảo một sự phân phối lại của quyền đàm phán ban đầu có lợi cho các Thành viên xuất khẩu nhỏ và vừa. Nếu đó không phải là trường hợp, người ta sẽ cân nhắc tới các cải thiện có thể, căn cứ vào khả năng của các số liệu đầy đủ, việc thông qua một tiêu chí dựa trên tỷ lệ xuất khẩu bị ảnh hưởng bởi nhượng bộ cho xuất khẩu đến tất cả các thị trường của sản phẩm đang được đề cập đến.

2. Nếu một Thành viên cho rằng họ có lợi ích cung cấp chính trong các thuật ngữ của đoạn 1, họ nên gửi khiếu nại bằng văn bản, với các bằng chứng kèm theo, cho Thành viên đề nghị sửa đổi hoặc rút bỏ một nhượng bộ, và ngay tại thời điểm đó thông báo cho Ban Thư ký. Đoạn 4 của “Các thủ tục đối với các Đàm phán theo Điều XXVIII” được thông qua ngày 10/11/1980 (BISD 27S/26-28) sẽ áp dụng cho các trường hợp này.

3. Trong sự quyết định của các thành viên có lợi ích cung cấp chính (như đã quy định tại đoạn 1 ở trên hoặc tại đoạn 1 của Điều XXVIII) hoặc lợi ích cơ bản, chỉ có việc buôn bán sản phẩm bị ảnh hưởng đã xảy ra dựa trên cơ sở MFN sẽ được cân nhắc đến. Tuy nhiên, việc buôn bán sản phẩm bị ảnh hưởng mà đã xảy ra theo các ưu đãi không hợp đồng cũng sẽ được quan tâm đến nếu việc buôn bán đang được bàn đến đã không còn đem lại lợi nhuận từ sự đối xử ưu đãi đó, vì thế trở thành thương mại MFN, tại cùng thời điểm đàm phán cho việc sửa đổi hoặc rút bỏ nhượng bộ, hoặc sẽ thực hiện như vậy bởi sự chấm dứt việc đàm phán đó.

4. Khi một nhượng bộ thuế quan được sửa đổi hoặc rút bỏ về một sản phẩm mới (ví dụ một sản phẩm mà không có các số liệu thương mại trong ba năm) Thành viên có các quyền đàm phán ban đầu về dòng thuế mà sản phẩm là hoặc đã được phân loại một cách chính thức sẽ được coi là có một quyền đàm phán ban đầu trong sự nhượng bộ đang được bàn đến. Việc quyết định đối với các lợi ích cơ bản và cung cấp chính và sự tính toán đền bù sẽ được tính đến, giữa các vấn đề khác, năng lực sản xuất và đầu tư của sản phẩm bị ảnh hưởng của Thành viên xuất khẩu và sự tăng trưởng xuất khẩu ước tính, như dự đoán về nhu cầu đối với sản phẩm của Thành viên xuất khẩu. Với mục đích của đoạn này, “sản phẩm mới” được hiểu bao gồm một mục thuế được hình thành bởi các biện pháp làm tách ra từ một dòng thuế hiện đang tồn tại.

5. Nếu một Thành viên cho rằng họ có một lợi ích cơ bản hoặc cung cấp chính theo tinh thần của đoạn 4, họ nên gửi khiếu nại bằng văn bản, cùng với các bằng chứng liên quan, cho Thành viên đề nghị sửa đổi hoặc rút bỏ một nhượng bộ, và cùng lúc đó thông báo cho Ban Thư ký. Đoạn 4 về “Các thủ tục đối với các đàm phán theo Điều XXVIII” đã được đề cập ở trên sẽ áp dụng trong các trường hợp đó.

6. Khi một nhượng bộ thuế quan không hạn chế được thay thế bởi một hạn ngạch thuế suất, số lượng nhượng bộ được quy định nên vượt quá số lượng thương mại thực tế bị ảnh hưởng bởi việc sửa đổi của nhượng bộ. Cơ sở cho việc tính toán mức đền bù sẽ là số lượng mà các triển vọng thương mại tương lai vượt quá mức hạn ngạch. Điều này được hiểu rằng việc tính toán các triển vọng thương mại tương lai sẽ dựa trên sự lớn hơn:

(a) thương mại hàng năm trung bình của ba năm đại diện gần nhất, đã tăng thêm bởi tỷ lệ tăng trưởng hàng năm trung bình của nhập khẩu trong cùng một thời điểm, hoặc bởi 10%, tuỳ thuộc cái nào lớn hơn; hoặc

(b) thương mại của năm gần nhất tăng thêm 10%.

Không có trường hợp nào trách nhiệm của một Thành viên đối với sự đền bù sẽ vượt quá mức bắt buộc nếu hoàn thành việc rút bỏ nhượng bộ.

7. Bất kỳ Thành viên nào có lợi ích cung cấp chính, như đã nêu tại đoạn 1 ở trên hoặc tại đoạn 1 của Điều XXVIII, về một nhượng bộ mà được sửa đổi hoặc rút bỏ sẽ có được quyền đàm phán ban đầu trong các nhượng bộ đền bù, trừ phi hình thức khác của nhượng bộ được các Thành viên có liên quan đồng ý.

Nghị định thư Marrakesh về GATT 1994

Các Thành viên,

Có tiến hành các đàm phán trong khuôn khổ GATT 1947, theo Tuyên bố Bộ trưởng về Vòng Uruguay,

Dưới đây thoả thuận như sau:

1. Danh mục phụ lục của Nghị định thư này liên quan đến một Thành viên sẽ trở thành một Danh mục của GATT 1994 liên quan đến Thành viên vào ngày mà Hiệp định WTO có hiệu lực đối với Thành viên đó. Bất kỳ danh mục nào đã được đệ trình phù hợp với Tuyên bố Bộ trưởng về các Biện pháp Ưu đãi cho các Nước kém phát triển nhất sẽ được coi như phụ lục của Nghị định thư này.

2. Các giảm thuế đã được mỗi Thành viên đồng ý ở trên sẽ được thực hiện theo 5 giai đoạn có tỷ lệ cắt giảm bằng nhau, ngoại trừ điều đó có thể được quy định khác trong một Danh mục của Thành viên. Giai đoạn đầu tiên của cắt giảm sẽ được thực hiện có hiệu quả vào ngày Hiệp định WTO có hiệu lực, mỗi giai đoạn cắt giảm kế tiếp sẽ được thực hiện có hiệu quả vào ngày 1 tháng 1 của các năm kế tiếp, và giai đoạn cuối cùng sẽ được thực hiện không muộn hơn 4 năm sau ngày Hiệp định WTO có hiệu lực, ngoại trừ có thể điều đó có thể được quy định khác trong Danh mục của Thành viên đó. Trừ phi được quy định khác trong Danh mục của mình, một Thành viên chấp thuận Hiệp định WTO sau khi nó có hiệu lực sẽ, vào ngày Hiệp định đó có hiệu lực, thực hiện có hiệu quả tất cả các giai đoạn cắt giảm đã xảy ra rồi cùng với các cắt giảm mà Thành viên đó có nghĩa vụ thực hiện có hiệu quả vào ngày 1 tháng 1 của năm kế tiếp theo như tuyên bố trước đó, và sẽ thực hiện có hiệu quả tất cả các giai đoạn cắt giảm còn lại dựa trên danh mục được quy định tại tuyên bố trước đó. Tỷ lệ cắt giảm trong mỗi giai đoạn phải được hoàn tất cho đến số thập phân đầu tiên. Đối với các sản phẩm nông nghiệp, như đã quy định trong Điều 2 của Hiệp định về Nông nghiệp, các giai đoạn cắt giảm sẽ được thực hiện như đã quy định trong các phần có liên quan của các danh mục.

3. Việc thực hiện các miễn trừ hoặc các cam kết trong các danh mục phụ lục của Nghị định thư này sẽ, theo yêu cầu, là đối tượng xem xét đa biên bởi các Thành viên. Điều đó không gây phương hại tới các quyền và các nghĩa vụ của các Thành viên theo các Hiệp định trong Phụ lục 1A của Hiệp định WTO.

4. Sau khi danh mục phụ lục của Nghị định thư này liên quan tới một Thành viên trở thành một Danh mục của GATT 1994 thực hiện theo các quy định của đoạn 1, tại bất kỳ thời điểm nào Thành viên đó sẽ được tự do từ chối hoặc rút khỏi toàn bộ hoặc một phần của nhượng bộ trong Danh mục đó liên quan đến bất kỳ sản phẩm nào mà người cung cấp chính là bất kỳ người tham gia nào khác của Vòng Uruguay danh mục mà chưa trở thành một Danh mục của GATT 1994. Hành động như vậy có thể, tuy nhiên, chỉ được thực hiện sau khi có thông báo bằng văn bản của bất kỳ người từ chối hoặc rút khỏi nào đối với nhượng bộ đã được trao cho Uỷ ban về Thương mại Hàng hoá và sau khi tổ chức các cuộc tham vấn, theo yêu cầu, với bất kỳ Thành viên nào, danh mục thích hợp liên quan tới danh mục trở thành Danh mục của GATT 1994 và danh mục có lợi ích cơ bản về sản phẩm liên quan. Bất kỳ các nhượng bộ nào như vậy đã từ chối hoặc rút khỏi sẽ được áp dụng vào và sau ngày mà danh mục của Thành viên có lợi ích cung cấp chính trở thành một Danh mục của GATT 1994.

5. (a) Không ảnh hưởng đến các quy định của đoạn 2 của Điều 4 của Hiệp định về Nông nghiệp, với mục đích của tham chiếu tại các đoạn 1(b) và 1(c) của Điều II của GATT 1994 vào ngày có hiệu lực của Hiệp định đó, ngày có thể áp dụng đối với mỗi sản phẩm mà đối tượng của một nhượng bộ đã quy định trong một danh mục của nhượng bộ phụ lục của Nghị định thư này sẽ là ngày có hiệu lực của Nghị định thư này.

(b) Với mục đích của tham chiếu tại đoạn 6(a) của Điều II của GATT 1994 đến ngày có hiệu lực của Hiệp định đó, ngày có thể áp dụng đối với một danh mục của các nhượng bộ phụ lục của Nghị định thư đó sẽ là ngày có hiệu lực của Nghị định thư.

6. Trong các trường hợp của sửa đổi hoặc rút bỏ các nhượng bộ liên quan đến các biện pháp phi thuế như đã bao hàm trong Phần III của các danh mục, các quy định của Điều XXVIII của GATT 1994 và “Các Thủ tục đối với các Đàm phán theo Điều XXVIII” đã được thông qua ngày 10/11/1980 (BISD 27S/26-28) sẽ áp dụng. Điều này sẽ không ảnh hưởng đến các quyền và các nghĩa vụ của các Thành viên theo GATT 1994.

7. Trong mỗi trường hợp mà một danh mục phụ lục của Nghị định thư này dẫn đến kết quả là bất kỳ sản phẩm nào hưởng sự đối xử kém ưu đãi hơn sự đối xử đã được quy định cho sản phẩm đó trong các Danh mục của GATT 1994 trước ngày có hiệu lực của Hiệp định WTO, Thành viên mà danh mục liên quan sẽ được coi là đã thực hiện hành động phù hợp khi cần thiết theo các quy định liên quan của Điều XXVIII của GATT 1947 hoặc 1994. Các quy định của đoạn này sẽ chỉ được áp dụng cho Ai cập, Peru, Nam phi và Uruguay.

8. Các Danh mục phụ lục về vấn đề này là xác thực đối với Tiếng Anh, tiếng Pháp hoặc tiếng Tây Ban Nha như đã chỉ rõ trong mỗi Danh mục.

9. Nghị định thư này ký ngày 15/4/1994

1 Các hoạt động của ban công tác sẽ được phối hợp với các nhóm công tác được nêu trong Phần III của Tuyên bố cấp Bộ trưởng về Thủ tục thông báo được thông qua vào 15/4/1994.

1 Không có quy định nào trong cách hiểu này có ý định thay đổi các quyền và các nghĩa vụ của các Thành viên theo Điều XII hoặc XVIII:B của GATT 1994. Các quy định của Điều XII hoặc XVIII của GATT 1994 như đã trình bày tỉ mỉ và áp dụng bởi Cách hiểu giải quyết tranh chấp có thể được viện dẫn liên quan tới bất kỳ vấn đề nào nảy sinh từ việc áp dụng các biện pháp hạn chế nhập khẩu thực hiện đối với các mục đích cán cân thanh toán.

1 Các miễn trừ trong quy định quy định này được liệt kê tại chú giải 7 trang 11 và 12 Phần II của văn bản MTN/FA ngày 15/12/1993và tại MTN/FA/Corr. 6 ngày 21/3/1994. Danh mục này, sẽ được Hội nghị Bộ trưởng lập ra và sửa đổi tại phiên họp thứ nhất, bổ sung các miễn trừ theo GATT 1947 sau ngày 15/12/1993 và trước ngày có hiệu lực của Hiệp định WTO và loại bỏ những miễn trừ sẽ bị hết hiệu lực vào thời điểm đó

Hiệp định Makeresh thành lập Tổ chức thương mại thế giới

Thừa nhận thêm rằng cần phải có nỗ lực tích cực để bảo đảm rằng các quốc gia đang phát triển, đặc biệt là những quốc gia kém phát triển nhất, duy trì được tỷ phần tăng trưởng trong thương mại quốc tế tương xứng với nhu cầu phát triển kinh tế của các quốc gia đó,

Mong muốn đóng góp vào những mục tiêu này bằng cách tham gia vào những thoả thuận tương hỗ và cùng có lợi theo hướng giảm đáng kể thuế và các hàng rào cản trở thương mại khác và theo hướng loại bỏ sự phân biệt đối xử trong các mối quan hệ thương mại quốc tế,

Do đó, quyết tâm xây dựng một cơ chế thương mại đa biên chặt chẽ, ổn định, và khả thi hơn, bao gồm Hiệp định chung về thuế quan và thương mại, kết quả của những nỗ lực tự do hoá thương mại từ trước tới nay và toàn bộ kết quả của Vòng Uruguay về Đàm phán Thương mại Đa biên,

Quyết tâm duy trì những nguyên tắc cơ bản và tiếp tục theo đuổi những mục tiêu đang đặt ra cho cơ chế thương mại đa biên này,

Đã nhất trí như sau:



Điều I - Thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới (dưới đây được gọi tắt là “WTO”).

Điều II - Phạm vi của WTO

1.WTO là một khuôn khổ định chế chung để điều chỉnh các mối quan hệ thương mại giữa các Thành viên của tổ chức về những vấn đề liên quan đến các Hiệp định và các văn bản pháp lý không tách rời gồm cả những Phụ lục của Hiệp định này.

2.Các Hiệp định và các văn bản pháp lý không tách rời gồm cả Phụ lục 1, 2 và 3 (dưới đâỵ được gọi là "Các Hiệp định Thương mại Đa biên") là những phần không thể tách rời Hiệp định này và ràng buộc tất cả các Thành viên.

3.Các Hiệp định và các văn bản pháp lý không tách rời trong Phụ lục 4 (dưới đâỵ được gọi là "Các Hiệp định Thương mại Nhiều bên") cũng là những phần không thể tách rời khỏi Hiệp định này và ràng buộc tất cả các Thành viên đã chấp nhận chúng. Các Hiệp định Thương mại Nhiều bên không tạo ra quyền hay nghĩa vụ gì đối với những nước Thành viên không chấp nhận chúng.

4.Hiệp định Chung về Thuế quan và Thương mại năm 1994 được nêu cụ thể trong Phụ lục 1A (dưới đây được gọi là "GATT 1994") độc lập về mặt pháp lý đối với Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại ngày 30 tháng 10 năm 1947 (dưới đây được gọi là "GATT 1947") đã được chỉnh lý, sửa chữa hay thay đổi, là phụ lục của Văn kiện cuối cùng được thông qua tại buổi bế mạc phiên họp lần thứ hai Hội đồng Trù bị của Hội nghị Liên Hợp Quốc về Thương mại và Việc làm.

Điều III - Chức năng của WTO

1. WTO tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực thi, quản lý và điều hành, những mục tiêu khác của Hiệp định này và các Hiệp định Thương mại Đa biên và cũng là một khuôn khổ cho việc thực thi, quản lý và điều hành các Hiệp định Thương mại Nhiều bên.

2. WTO là một diễn đàn cho các cuộc đàm phán giữa các nước Thành viên về những mối quan hệ thương mại đa biên trong những vấn đề được điều chỉnh theo các thoả thuận qui định trong các Phụ lục của Hiệp định này. WTO có thể là một diễn đàn cho các cuộc đàm phán tiếp theo giữa các nước Thành viên về những mối quan hệ thương mại đa biên của họ và cũng là một cơ chế cho việc thực thi các kết quả của các cuộc đàm phán đó hay do Hội nghị Bộ trưởng quyết định.

3. WTO sẽ theo dõi Bản Diễn giải về những Qui tắc và Thủ tục Giải quyết Tranh chấp (dưới đâỵ được gọi là "Bản Diễn giải về Giải quyết Tranh chấp” hay “DSU”) trong Phụ lục 2 của Hiệp định này.

4. WTO sẽ theo dõi Cơ chế Rà soát Chính sách Thương mại (dưới đâỵ được gọi là "TPRM”) tại Phụ lục 3 của Hiệp định này.

5. Nhằm đạt được sự nhất quán cao hơn trong quá trình hoạch định chính sách kinh tế toàn cầu, WTO, khi cần thiết, phải hợp tác với Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Ngân hàng Quốc tế về Tái thiết và Phát triển và các cơ quan trực thuộc của nó.

Điều IV - Cơ cấu của WTO

1. Hội nghị Bộ trưởng sẽ họp hai năm một lần bao gồm đại diện của tất cả các Thành viên. Hội nghị Bộ trưởng sẽ thực hiện chức năng của WTO và đưa ra những hành động cần thiết để thực thi những chức năng này. Khi một Thành viên nào đó yêu cầu, Hội nghị Bộ trưởng có quyền đưa ra những quyết định về tất cả những vấn đề thuộc bất kỳ một Hiệp định Thương mại Đa biên nào theo đúng các yêu cầu cụ thể về cơ chế ra quyết định qui định trong Hiệp định này và Hiệp định Thương mại Đa biên có liên quan.

2. Đại Hội đồng, gồm đại diện của tất cả các nước Thành viên, sẽ họp khi cần thiết. Trong thời gian giữa các khoá họp của Hội nghị Bộ trưởng, thì chức năng của Hội nghị Bộ trưởng sẽ do Đại Hội đồng đảm nhiệm. Đại Hội đồng cũng thực hiện những chức năng được qui định trong Hiệp định này. Đại Hội đồng sẽ thiết lập các quy tắc về thủ tục của mình và phê chuẩn những qui tắc về thủ tục cho các ủy ban quy định tại khoản 7 Điều IV.

3. Khi cần thiết Đại Hội đồng sẽ được triệu tập để đảm nhiệm phần trách nhiệm của Cơ quan Giải quyết Tranh chấp được qui định tại Bản Diễn giải về giải quyết tranh chấp. Cơ quan giải quyết tranh chấp có thể có chủ tịch riêng và tự xây dựng ra những qui tắc về thủ tục mà cơ quan này cho là cần thiết để hoàn thành trách nhiệm của mình.

4. Khi cần thiết Đại Hội đồng sẽ được triệu tập để đảm nhiệm trách nhiệm của Cơ quan Rà soát Chính sách Thương mại được qui định tại TPRM. Cơ quan Rà soát Chính sách Thương mại có thể có chủ tịch riêng và sẽ xây dựng những qui tắc về thủ tục mà cơ quan này cho là cần thiết để hoàn thành trách nhiệm của mình.

5. Hội đồng Thương mại Hàng hoá, Hội đồng Thương mại Dịch vụ và Hội đồng về các khía cạnh của Quyền Sở hữu Trí tuệ liên quan đến Thương mại (dưới đây được gọi tắt là “Hội đồng TRIPS”), sẽ hoạt động theo chỉ đạo chung của Đại Hội đồng. Hội đồng Thương mại Hàng hoá sẽ giám sát việc thực hiện các Hiệp định Thương mại Đa biên trong Phụ lục 1A. Hội đồng về Thương mại Dịch vụ sẽ giám sát việc thực hiện Hiệp định Thương mại Dịch vụ (dưới đây được gọi tắt là “GATS”). Hội đồng về các khía cạnh liên quan đến thương mại của Quyền Sở hữu Trí tuệ sẽ giám sát việc thực hiện Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của Quyền Sở hữu Trí tuệ (dưới đây được gọi tắt là “Hiệp định TRIPS”). Tất cả các Hội đồng này sẽ đảm nhiệm những chức năng được qui định trong các Hiệp định riêng rẽ và do Đại Hội đồng giao phó. Các Hội đồng này sẽ tự xây dựng cho mình những qui tắc về thủ tục và phải được Đại Hội đồng thông qua. Tư cách thành viên của các Hội đồng này sẽ được rộng mở cho đại điện của các nước Thành viên. Khi cần thiết các Hội đồng này có thể nhóm họp để thực hiện các chức năng của mình.

6. Hội đồng Thương mại Hàng hoá, Hội đồng Thương mại Dịch vụ và Hội đồng về các khía cạnh liên quan đến thương mại của Quyền Sở hữu Trí tuệ liên quan sẽ thành lập ra các cơ quan cấp dưới theo yêu cầu. Các cơ quan cấp dưới này sẽ tự xây dựng cho mình những qui định về thủ tục và phải được Hội đồng cấp trên của mình thông qua.

7. Hội nghị Bộ trưởng sẽ thành lập ra một Uỷ ban về Thương mại và Phát triển, Uỷ ban về các hạn chế đối với Cán cân Thanh toán Quốc tế và Uỷ ban về Ngân sách, Tài chính và Quản trị. Những Uỷ ban này sẽ đảm nhiệm các chức năng được qui định trong Hiệp định này và các Hiệp định Thương mại Đa biên, và bất kỳ một chức năng nào thêm khác do Đại Hội đồng giao cho. Hội nghị Bộ trưởng có thể thành lập thêm các Uỷ ban tương tự như vậy với chức năng tương ứng khi thấy cần thiết. Trong phạm vi chức năng của mình, ủy ban về Thương mại và Phát triển sẽ định kỳ rà soát các quy định đặc biệt tại các Hiệp định Thương mại Đa biên dành cho các nước kém phát triển nhất và báo cáo lên Đại Hội đồng để có những quyết sách thích hợp. Tư cách thành viên của các Uỷ ban này sẽ được mở rộng cho đại điện của các nước Thành viên.

8. Các cơ quan được qui định trong các Hiệp định Thương mại Nhiều bên sẽ đảm nhiệm những chức năng được giao cho mình trong các hiệp định này và sẽ hoạt động trong khuôn khổ định chế của WTO. Các cơ quan này sẽ phải định kỳ thông báo về những hoạt động của họ cho Đại Hội đồng.

Điều V - Quan hệ với các tổ chức khác

1. Đại Hội đồng sẽ dàn xếp hợp lý việc hợp tác có hiệu quả với các tổ chức liên chính phủ có trách nhiệm liên quan đến các vấn đề tương ứng trong WTO.

2. Đại Hội đồng sẽ dàn xếp hợp ký việc tham vấn và hợp tác với các tổ chức phi chính phủ về những vấn đề liên quan đến WTO.

Điều VI - Ban Thư ký

1. Ban Thư ký của WTO (dưới đây được gọi là “Ban Thư ký”) sẽ do một Tổng Giám đốc lãnh đạo.

2. Hội nghị Bộ trưởng sẽ bổ nhiệm Tổng Giám đốc và thông qua các qui định về quyền hạn, nghĩa vụ, điều kiện phục vụ và thời hạn phục vụ của Tổng Giám đốc.

3. Tổng Giám đốc sẽ bổ nhiệm các thành viên của Ban Thư ký và quyết định nghĩa vụ và điều kiện phục vụ phù hợp với quyết định của Hội nghị Bộ trưởng .

4. Trách nhiệm của Tổng Giám đốc và nhân viên của Ban Thư ký sẽ phải hoàn toàn mang tính quốc tế. Khi thực hiện bổn phận của mình, Tổng Giám đốc và nhân viên của Ban Thư ký sẽ không được phép tìm kiếm hoặc chấp nhận những chỉ thị từ bất kỳ một chính phủ hay một cơ quan nào khác bên ngoài WTO. Tổng Giám đốc và nhân viên của Ban Thư ký cũng phải tự kiềm chế đối với bất kỳ một hành động nào có thể gây ảnh hưởng tiêu cực đến vị trí là quan chức quốc tế của họ. Các Thành viên của WTO phải tôn trọng đặc điểm quốc tế về trách nhiệm của Tổng Giám đốc và nhân viên của Ban Thư ký và không được gây ảnh hưởng gì trong quá trình thực thi bổn phận của mình.

Điều VII - Ngân sách và đóng góp

1. Tổng Giám đốc phải trình lên Uỷ ban Ngân sách, Tài chính và Quản trị báo cáo tài chính và dự toán ngân sách hàng năm của WTO. Uỷ ban Ngân sách, Tài chính và Quản trị sẽ xem xét báo cáo này và đưa ra các khuyến nghị/đề xuất lên Đại Hội đồng. Dự toán ngân sách hàng năm phải được Đại Hội đồng thông qua.

2. Uỷ ban Ngân sách, Tài chính và Quản trị phải đệ trình lên Đại Hội đồng Quy chế tài chính, bao gồm những qui định về:

(a) mức đóng góp để chia sẻ chi phí của WTO giữa các Thành viên; và

(b) các biện pháp áp dụng đối với những nước Thành viên còn nợ.

Quy chế tài chính phải căn cứ trên, nhiều nhất có thể được, các qui định và thông lệ của GATT 1947.

3. Quy chế tài chính và dự toán ngân sách hàng năm phải được Đại Hội đồng thông qua bởi 2/3 số phiếu của trên một nửa số Thành viên WTO .

4. Mỗi Thành viên sẽ phải đóng góp ngay lập tức cho WTO phần của họ trong chi phí của WTO phù hợp với Qui chế tài chính đã được Đại Hội đồng thông qua.

Điều VIII - Địa vị của WTO

1. WTO có tư cách pháp nhân và được mỗi nước Thành viên trao cho năng lực pháp lý đó khi cần thiết để thực thi các chức năng của mình.

2. WTO được mỗi nước Thành viên trao cho những đặc quyền và quyền bất khả xâm phạm khi cần thiết để thực thi các chức năng của mình.

3. Nhân viên của WTO và đại diện của các Thành viên tương tự như vậy cũng được mỗi nước Thành viên trao cho những đặc quyền và quyền bất khả xâm phạm khi cần thiết để thực thi độc lập các chức năng của họ trong khuôn khổ WTO.

4. Những đặc quyền và quyền bất khả xâm phạm được mỗi nước Thành viên trao cho WTO, nhân viên của WTO và đại diện của mỗi Thành viên tương tự như những đặc quyền và quyền bất khả xâm phạm qui định trong Công ước về những đặc quyền và quyền bất khả xâm phạm của các cơ quan chuyên môn, được Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày 21 tháng 11 năm 1947.

5. WTO có thể ký kết hợp đồng về trụ sở hoạt động chính.

Điều IX - Quá trình ra quyết định

1. WTO tiếp tục thông lệ ra quyết định trên cơ sở đồng thuận như qui định trong GATT 1947[1]. Trừ khi có quy định khác, nếu không thể đạt được một quyết định trên cơ sở đồng thuận, thì vấn đề cần giải quyết sẽ được quyết định bằng hình thức bỏ phiếu. Tại các cuộc họp của Hội nghị Bộ trưởng và Đại Hội đồng, mỗi Thành viên của WTO có một phiếu. Nếu Cộng đồng Châu âu thực hiện quyền bỏ phiếu của mình thì họ sẽ có số phiếu tương đương số lượng thành viên của Cộng đồng[2] là Thành viên của WTO. Trừ khi có quy định khác trong Hiệp định này hoặc trong Hiệp định Thương mại Đa biên có liên quan[3], các quyết định của Hội nghị Bộ trưởng và Đại Hội đồng được thông qua trên cơ sở đa số phiếu.

2. Hội nghị Bộ trưởng và Đại Hội đồng có thẩm quyền chuyên biệt để thông qua việc giải thích của Hiệp định này và của các Hiệp định Thương mại Đa biên. Trong trường hợp giải thích một Hiệp định Thương mại Đa biên trong Phụ lục 1, Hội nghị Bộ trưởng và Đại Hội đồng sẽ thực thi thẩm quyền của họ trên cơ sở đề xuất của Hội đồng giám sát chức năng của hiệp định đó. Quyết định thông qua sẽ được chấp nhận bởi 3/4 số Thành viên. Khoản này sẽ không được sử dụng theo cách để xác định các quy định sửa đổi tại Điều X.

3. Trong những trường hợp ngoại lệ, Hội nghị Bộ trưởng có thể quyết định miễn trừ một nghĩa vụ được Hiệp định này hoặc bất kỳ một Hiệp định Thương mại Đa biên nào quy định cho một nước Thành viên, với điều kiện quyết định này được thông qua bởi 3/4[4] số nước Thành viên trừ khi có qui định khác tại khoản này.


(a) yêu cầu miễn trừ một nghĩa vụ nào đó liên quan đến Hiệp định này phải được đệ trình lên Hội nghị Bộ trưởng để xem xét theo đúng thông lệ của cơ chế ra quyết định bằng nguyên tắc nhất trí. Hội nghị Bộ trưởng sẽ quyết định thời hạn, những không được quá 90 ngày, để xem xét yêu cầu này.

(b) yêu cầu miễn trừ một nghĩa vụ nào đó liên quan đến các Hiệp định Thương mại Đa biên trong các Phụ lục 1A hoặc 1B hoặc 1C và những phụ lục của các hiệp định này phải được đệ trình riêng rẽ lên Hội đồng Thương mại Hàng hoá, Hội đồng Thương mại Dịch vụ và Hội đồng về các khía cạnh có liên quan đến thương mại của Quyền Sở hữu Trí tuệ để xem xét trong thời hạn không quá 90 ngày. Sau thời hạn đó, mỗi Hội đồng này sẽ đệ trình báo cáo lên Hội nghị Bộ trưởng.

4. Quyết định của Hội nghị Bộ trưởng cho phép miễn trừ một nghĩa vụ nào đó phải nêu rõ các trường hợp ngoại lệ áp dụng cho quyết định đó, các điều khoản và điều kiện điều chỉnh việc áp dụng sự miễn trừ này, ngày hết hiệu lực của miễn trừ. Bất kỳ một sự miễn trừ nào có thời hạn qúa một năm đều phải được Hội nghị Bộ trưởng xem xét lại trong vòng không quá một năm sau khi sự miễn trừ đó được ban hành và tiếp sau đó hàng năm Hội nghị Bộ trưởng sẽ tiếp tục xem xét lại sự miễn trừ đó cho tới khi sự miễn trừ đó hết hiệu lực. Trong mỗi lần xem xét lại, Hội nghị Bộ trưởng sẽ xem xét liệu những trường hợp ngoại lệ đó còn tồn tại hay không và liệu những điều khoản và điều kiện đi kèm sự miễn trừ này còn thoả mãn hay không. Hội nghị Bộ trưởng, trên cơ sở xem xét hàng năm, có thể gia hạn, sửa đổi hoặc chấp dứt sự miễn trừ đó.

5. Các quyết định thuộc Hiệp định Thương mại Nhiều bên, bao gồm cả bất kỳ một quyết định nào về việc giải thích và về sự miễn trừ, sẽ phải được điều chỉnh bởi những qui định của Hiệp định đó.

Điều X - Sửa đổi

1. Bất kỳ một Thành viên nào của WTO đều có thể đề nghị sửa đổi các quy định của Hiệp định này hoặc các Hiệp định Thương mại Đa biên trong Phụ lục 1 bằng cách đệ trình đề nghị đó lên Hội nghị Bộ trưởng. Các Hội đồng được liệt kê trong khoản 5 Điều IV cũng có thể đệ trình lên Hội nghị Bộ trưởng những đề nghị sửa đổi của các Hiệp định Thương mại Đa biên trong Phụ lục 1. Trừ trường hợp Hội nghị Bộ trưởng đưa ra một thời hạn dài hơn, trong vòng 90 ngày sau khi đề nghị sửa đổi được chính thức đưa vào chương trình nghị sự của Hội nghị Bộ trưởng, thì bất kỳ một quyết định nào của Hội nghị Bộ trưởng về đề nghị sửa đổi được gửi tới các Thành viên để thông qua đều được thực hiện trên cơ sở đồng thuận. Trừ khi các quy định của khoản 2, 5 hoặc 6 được áp dụng, quyết định đó sẽ phải xác định rõ liệu các quy định tại khoản 3 hoặc 4 có được áp dụng hay không. Nếu quyết định đó được nhất trí thông qua, Hội nghị Bộ trưởng sẽ ngay lập tức đệ trình sửa đổi được đề nghị đó cho các Thành viên để họ thông qua. Nếu quyết định đó không được nhất trí thông qua trong thời hạn đã đưa ra thì Hội nghị Bộ trưởng sẽ quyết định bởi đa số 2/3 số Thành viên rằng có đệ trình sửa đổi được đề nghị đó cho các Thành viên để họ thông qua hay không. Trừ các qui định trong khoản 2, 5 và 6, các quy định của khoản 3 sẽ được áp dụng cho sửa đổi được đề nghị trừ khi Hội nghị Bộ trưởng quyết định bởi 3/4 số Thành viên rằng các quy định tại khoản 4 sẽ được áp dụng.

2. Những sửa đổi đối với các qui định của Điều này và của các quy định tại các Điều dưới đây sẽ chỉ có hiệu lực khi có sự chấp nhận bởi tất cả các Thành viên:

Điều IX của Hiệp định này;

Điều I và II của GATT 1994;

Điều II: 1 của Hiệp định GATS;

Điều 4 của Hiệp định TRIPS.

3. Trừ các điều khoản được liệt kê trong khoản 2 và 6, việc sửa đổi các quy định của Hiệp định này hoặc của các Hiệp định Thương mại Đa biên trong Phụ lục 1A và 1C, mà làm thay đổi những quyền và nghĩa vụ của các nước Thành viên, được chấp nhận bởi 2/3 số nước Thành viên thì sẽ có hiệu lực đối với những nước Thành viên chấp nhận chúng và từ đó sẽ có hiệu lực với mỗi Thành viên khác khi Thành viên đó chấp nhận. Bất kỳ một sửa đổi nào được Hội nghị Bộ trưởng thông qua với 3/4 đa số và đã có hiệu lực theo khoản này, theo đó bất kỳ một nước Thành viên nào không chấp nhận sửa đổi đó trong thời hạn do Hội nghị Bộ trưởng qui định trong từng trường hợp cụ thể thì sẽ được tự do rút khỏi WTO hoặc vẫn tiếp tục là Thành viên nếu Hội nghị Bộ trưởng đồng ý.

4. Trừ các quy định liệt kê trong khoản 2 và 6, việc sửa đổi các các quy định của Hiệp định này hoặc của các Hiệp định Thương mại Đa biên trong Phụ lục 1A và 1C, mà không làm thay đổi những quyền và nghĩa vụ của các Thành viên thì sẽ có hiệu lực đối với tất cả các nước Thành viên nếu được 2/3 số Thành viên chấp nhận.

5. Trừ các quy định trong khoản 2 ở trên, những sửa đổi đối với Phần I, II và III của GATS và từng Phụ lục tương ứng sẽ có hiệu lực đối với tất cả các Thành viên chấp nhận những sửa đổi này trên cơ sở chấp thuận của 2/3 số Thành viên và từ đó sẽ có hiệu lực với mỗi Thành viên khác khi Thành viên đó chấp nhận. Bất kỳ một sửa đổi nào được Hội nghị Bộ trưởng thông qua với 3/4 đa số Thành viên và đã có hiệu lực theo các quy định trên thì theo đó, bất kỳ một nước Thành viên nào không chấp nhận sửa đổi này trong thời hạn do Hội nghị Bộ trưởng qui định trong từng trường hợp cụ thể thì sẽ được tự do rút khỏi WTO hoặc vẫn tiếp tục là Thành viên nếu Hội nghị Bộ trưởng đồng ý. Những sửa đổi đối với Phần IV, V và VI của GATS và các Phụ lục tương ứng sẽ có hiệu lực đối với tất cả các nước Thành viên khi được 2/3 nước Thành viên thông qua.

6. Cho dù có các quy định khác của Điều này, việc sửa đổi Hiệp định TRIPS thoả mãn các đòi hỏi của khoản 2 Điều 71 của Hiệp định đó có thể được Hội nghị Bộ trưởng thông qua mà không cần thủ tục chấp nhận chính thức thêm nữa.

7. Bất kỳ mộtThành viên nào chấp nhận một sửa đổi đối với Hiệp định này hoặc một Hiệp định Thương mại Đa biên trong Phụ lục 1 sẽ phải nộp lưu chiểu cho Tổng Giám đốc WTO trong một thời hạn chấp nhận được Hội nghị Bộ trưởng qui định.

8. Bất kỳ một Thành viên nào của WTO đều có thể đề nghị sửa đổi các quy định của các Hiệp định Thương mại Đa biên trong Phụ lục 2 và 3 bằng cách đệ trình đề nghị đó lên Hội nghị Bộ trưởng. Quyết định thông qua các sửa đổi đối với các Hiệp định Thương mại Đa biên trong Phụ lục 2 sẽ được thực hiện trên cơ sở đồng thuận và những sửa đổi này sẽ có hiệu lực đối với tất cả các nước Thành viên sau khi đã được Hội nghị Bộ trưởng thông qua. Quyết định thông qua việc sửa đổi các Hiệp định Thương mại Đa biên trong Phụ lục 3 sẽ có hiệu lực với các bên sau khi được Hội nghị Bộ trưởng thông qua.

9. Hội nghị Bộ trưởng, căn cứ yêu cầu của các Thành viên của một Hiệp định thương mại, có thể độc lập quyết định trên cơ sở đồng thuận việc đưa thêm Hiệp định đó vào Phụ lục 4. Hội nghị Bộ trưởng, căn cứ yêu cầu của các Thành viên của một Hiệp định Thương mại Nhiều bên, có thể độc lập quyết định loại bỏ Hiệp định đó ra khỏi Phụ lục 4.

10. Những sửa đổi đối với một Hiệp định Thương mại Nhiều bên sẽ chịu sự điều chỉnh của các quy định của Hiệp định đó.

Điều XI - Thành viên sáng lập

1. Kể từ ngày Hiệp định này có hiệu lực, các bên ký kết Hiệp định GATT 1947 và Cộng đồng Châu âu đã thông qua Hiệp định này và các Hiệp định Thương mại Đa biên với các Danh mục nhượng bộ và cam kết là phụ lục của GATT 1994 và các Danh mục các cam kết cụ thể là phụ lục của GATS sẽ trở thành Thành viên sáng lập của WTO.

2. Các nước kém phát triển được Liên hợp Quốc thừa nhận sẽ chỉ bị bắt buộc cam kết và nhượng bộ trong phạm vi phù hợp với trình độ phát triển của mỗi nước, nhu cầu về tài chính thương mại hoặc năng lực quản lý và thể chế của mình.

Điều XII - Gia nhập

1. Bất kỳ một quốc gia nào hay vùng lãnh thổ thuế quan riêng biệt nào hoàn toàn tự chủ trong việc điều hành các mối quan hệ ngoại thương và các vấn đề khác qui định trong Hiệp định này và các Hiệp định Thương mại Đa biên đều có thể gia nhập Hiệp định này theo các điều khoản đã thoả thuận giữa quốc gia hay vùng lãnh thổ thuế quan đó với WTO. Việc gia nhập đó cũng sẽ áp dụng cho Hiệp định này và các Hiệp định Thương mại Đa biên kèm theo.

2. Quyết định về việc gia nhập sẽ do Hội nghị Bộ trưởng đưa ra. Thoả thuận về những điều khoản gia nhập sẽ được thông qua nếu 2/3 số Thành viên của WTO chấp nhận tại Hội nghị Bộ trưởng.

3. Việc tham gia Hiệp định Thương mại Nhiều bên được điều chỉnh theo Hiệp định đó.

Điều XIII -Qui định về việc không áp dụng các Hiệp định Thương mại Đa biên giữa các thành viên cụ thể

1. Hiệp định này và các Hiệp định Thương mại Đa biên trong Phụ lục 1 và 2 sẽ không áp dụng giữa bất kỳ một Thành viên này với bất kỳ một nước Thành viên nào khác nếu một trong số các nước Thành viên đó, ở thời điểm một trong số họ trở thành Thành viên, không đồng ý áp dụng.

2. Khoản 1 có thể được viện dẫn giữa các nước Thành viên sáng lập WTO là các bên của GATT 1947 chỉ khi Điều XXXV của Hiệp định đó đã được viện dẫn trước và đã có hiệu lực giữa các bên đó tại thời điểm Hiệp định này có hiệu lực đối với họ.

3. Khoản 1 sẽ áp dụng giữa một nước Thành viên này với một nước Thành viên khác đã tham gia theo Điều XII chỉ khi các Thành viên này không đồng ý áp dụng và đã thông báo như vậy cho Hội nghị Bộ trưởng trước khi Hội nghị Bộ trưởng thông qua Thoả thuận về các điều kiện gia nhập.

4. Theo đề nghị của bất kỳ một nước Thành viên nào, Hội nghị Bộ trưởng có thể rà soát việc thực thi Điều này trong các trường hợp cụ thể và đưa ra những đề xuất thích hợp.

5. Việc không áp dụng một Hiệp định Thương mại Nhiều bên giữa các bên tham gia Hiệp định đó được điều chỉnh theo bằng các quy định của Hiệp định đó.

Điều XIV - Chấp nhận, có hiệu lực và nộp lưu chiểu

1. Hiệp định này sẽ không hạn chế việc chấp nhận bằng chữ ký hoặc bằng cách khác đối với các bên của GATT 1947, và Cộng đồng Châu âu, mà đã đủ điều kiện trở thành Thành viên sáng lập WTO phù hợp với các quy định của Điều XI Hiệp định này. Việc chấp nhận như vậy áp dụng cho cả Hiệp định này và các Hiệp định Thương mại Đa biên kèm theo. Ngày Hiệp định này và các Hiệp định Thương mại Đa biên kèm theo có hiệu lực được các Bộ trưởng xác định phù hợp với khoản 3 của Văn kiện cuối cùng bao quát Kết quả các cuộc Đàm phán Thương mại Đa biên trong Vòng Uruguay và sẽ không hạn chế việc tham gia trong thời hạn 2 năm kể từ sau ngày đó trừ khi các Bộ trưởng đưa ra quyết định khác. Sự chấp nhận sau khi Hiệp định này có hiệu lực sẽ có hiệu lực vào ngày thứ 30 sau ngày chấp nhận.

2. Khi một Thành viên chấp nhận Hiệp định này vào sau ngày Hiệp định này có hiệu lực thì phải thực hiện những nhượng bộ và nghĩa vụ trong các Hiệp định Thương mại Đa biên đã được thực hiện trong thời hạn bắt đầu từ khi Hiệp định này có hiệu lực như thể nước Thành viên này đã chấp nhận Hiệp định từ ngày Hiệp định có hiệu lực.

3. Cho tới khi Hiệp định này có hiệu lực, thì nội dung của Hiệp định này và các Hiệp định Thương mại Đa biên sẽ được nộp lưu chiểu cho Tổng Giám đốc của CáC BÊN Ký KếT GATT 1947. Tổng Giám đốc sẽ ngay lập tức cấp cho các chính phủ và Cộng đồng Châu âu đã chấp nhận Hiệp định này một bản có chứng thực Hiệp định này và các Hiệp định Thương mại Đa biên, và một bản thông báo chấp nhận từng hiệp định đó. Hiệp định này và các Hiệp định Thương mại Đa biên, các sửa đổi kèm theo, khi Hiệp định này có hiệu lực, sẽ được nộp lưu chiểu cho Tổng Giám đốc.

4. Sự chấp nhận và có hiệu lực của một Hiệp định Thương mại Nhiều bên được điều chỉnh bằng các quy định của Hiệp định đó. Các Hiệp định Thương mại Nhiều bên sẽ được nộp lưu chiểu cho Tổng Giám đốc của các bên ký kết GATT 1947. Khi Hiệp định này có hiệu lực thì các Hiệp định Thương mại Nhiều bên sẽ được nộp lưu chiểu cho Tổng Giám đốc WTO.

Điều XV - Rút lui

1. Bất kỳ một nước Thành viên nào cũng có thể rút khỏi Hiệp định này. Việc rút khỏi đó sẽ áp dụng cho cả Hiệp định này và các Hiệp định Thương mại Đa biên và sẽ có hiệu lực ngay sau khi hết 6 tháng kể từ ngày Tổng Giám đốc WTO nhận được thông báo bằng văn bản về việc rút khỏi đó.

2. Việc rút khỏi bất cứ một Hiệp định Thương mại Nhiều bên nào được điều chỉnh theo các quy định của Hiệp định đó.

Điều XVI - Các quy định khác

1. Trừ khi có qui định khác trong Hiệp định này hay các Hiệp định Thương mại Đa biên, WTO sẽ còn chịu sự điều chỉnh bởi các quyết định, thủ tục và các thông lệ thường có mà các bên của GATT 1947 và các cơ quan được hình thành trong khuôn khổ GATT 1947 vẫn tuân thủ.

2. Trong trường hợp có thể thực hiện được, Ban Thư ký của GATT 1947 sẽ trở thành Ban Thư ký của WTO. Tổng Giám đốc của các Bên ký kết GATT 1947, cho tới khi Hội nghị Bộ trưởng bổ nhiệm Tổng Giám đốc phù hợp với khoản 2 Điều VI của Hiệp định này, sẽ là Tổng Giám đốc của WTO.

3. Trong trường hợp có mâu thuẫn giữa quy định của Hiệp định này với quy định của bất kỳ một Hiệp định Thương mại Đa biên nào, thì các quy định của Hiệp định này sẽ được áp dụng để giải quyết mâu thuẫn nói trên.

4. Mỗi nước Thành viên sẽ đảm bảo sự thống nhất các luật, qui định và những thủ tục hành chính với những nghĩa vụ của mình được qui định trong các Hiệp định.

5. Không một bảo lưu nào đối với bất kỳ quy định nào của Hiệp định này được thực hiện. Những bảo lưu đối với bất kỳ một quy định nào của các Hiệp định Thương mại Đa biên chỉ được thực hiện trong phạm vi được qui định trong các Hiệp định đó. Những bảo lưu đối với bất kỳ một quy định nào của một Hiệp định Thương mại Nhiều bên được điều chỉnh theo các quy định của Hiệp định đó.

6. Hiệp định này sẽ được đăng ký phù hợp với quy định của Điều 102 Hiến chương Liên Hợp Quốc.

Hiệp định này được lập tại Marrakesh ngày 15 tháng 4 năm 1994 thành một bản duy nhất bằng ngôn ngữ tiếng Anh, tiếng Pháp và tiếng Tây Ban Nha, mỗi bản có giá trị như nhau .

Phần chú giải

Các thuật ngữ “quốc gia” hoặc “các quốc gia” được sử dụng trong Hiệp định này và các Hiệp định Thương mại Đa biên được hiểu là bao gồm cả Thành viên của WTO có vùng lãnh thổ thuế quan riêng rẽ.

Trong trường hợp Thành viên WTO là một vùng lãnh thổ thuế quan riêng rẽ, thì thuật ngữ “quốc gia” được sử dụng trong Hiệp định này và các Hiệp định Thương mại Đa biên sẽ được hiểu là vùng lãnh thổ thuế quan đó, nếu không có qui định cụ thể khác.

[1] Cơ quan có liên quan được xem xét như đã quyết định dựa trên nguyên tắc đồng thuận về những vấn đề được đưa ra cho mình xem xét nếu không có thành viên nào, có mặt tại phiên họp để đưa ra quyết định, chính thức phản đối quyết định được dự kiến.

[2] Số lượng phiếu của EC và các quốc gia thành viên sẽ không được quá số lượng quốc gia thành viên của EC trong bất kỳ trường hợp nào.

[3] Những quyết định của Đại Hội đồng trong trường hợp được triệu tập để thaythế Cơ quan Giải quyết Tranh chấp sẽ phải được đưa ra phù hợp với các quy định của khoản 4 Điều 2 của Bản Diễn giải về Giải quyết Tranh chấp.

[4] Một quyết định cho phép miễn trừ bất kỳ nghĩa vụ nào trong giai đoạn chuyển đổi hay giai đoạn thực hiện mà thành viên yêu cầu chưa thực hiện hết thời hạn có liên quan thì phải được thông qua dựa trên nguyên tắc đồng thuận

Hiệp định thực thi điều VI của Hiệp định chung về thuế quan và thương mại - GATT (1994)

Các Thành viên dưới đây thoả thuận như sau:

Phần I

Điều 1

Các nguyên tắc



Một biện pháp chống phá giá chỉ được áp dụng trong trường hợp được qui định tại Điều VI của GATT 1994 và phải tuân theo các thủ tục điều tra được bắt đầu[1] và tiến hành theo đúng các qui định của Hiệp định này. Các qui định sau đây điều tiết việc áp dụng Điều VI của GATT 1994 khi có một hành động được thực thi theo luật hoặc các qui định về chống bán phá giá.



Điều 2

Xác định việc bán phá giá



2.1 Trong phạm vi Hiệp định này, một sản phẩm bị coi là bán phá giá (tức là được đưa vào lưu thông thương mại của một nước khác thấp hơn trị giá thông thường của sản phẩm đó) nếu như giá xuất khẩu của sản phẩm được xuất khẩu từ một nước này sang một nước khác thấp hơn mức giá có thể so sánh được của sản phẩm tương tự được tiêu dùng tại nước xuất khẩu theo các điều kiện thương mại thông thường.



2.2 Trong trường hợp không có các sản phẩm tương tự được bán trong nước theo các điều kiện thương mại thông thường tại thị trường nước xuất khẩu hoặc trong trường hợp việc bán trong nước đó không cho phép có được sự so sánh chính xác do điều kiện đặc biệt của thị trường đó hoặc do số lượng hàng bán tại thị trường trong nước của nước xuất khẩu hàng hóa quá nhỏ[2], biên độ bán phá giá sẽ được xác định thông qua so sánh với mức giá có thể so sánh được của sản phẩm tương tự được xuất khẩu sang một nước thứ 3 thích hợp, với điều kiện là mức giá có thể so sánh được này mang tính đại diện, hoặc được xác định thông qua so sánh với chi phí sản xuất tại nước xuất xứ hàng hóa cộng thêm một khoản hợp lý chi phí quản lý, chi phí bán hàng, các chi phí chung và lợi nhuận.



2.2.1 Việc bán các sản phẩm tương tự tại thị trường nội địa của nước xuất khẩu hoặc bán sang một nước thứ ba với giá thấp hơn chi phí sản xuất theo đơn vị sản phẩm (bao gồm chi phí cố định và chi phí biến đổi) cộng với các chi phí quản trị, chi phí bán hàng và các chi phí chung có thể được coi là giá bán không theo các điều kiện thương mại thông thường về giá và có thể không được xem xét tới trong quá trình xác định giá trị thông thường của sản phẩm chỉ khi các cơ quan có thẩm quyền[3] quyết định rằng việc bán hàng đó được thực hiện trong một khoảng thời gian kéo dài[4] với một khối lượng đáng kể[5] và được bán với mức giá không đủ bù đắp chi phí trong một khoảng thời gian hợp lý. Nếu như mức giá bán thấp hơn chi phí tại thời điểm bán hàng nhưng lại cao hơn mức chi phí bình quân gia quyền cho mỗi sản phẩm trong khoảng thời gian tiến hành điều tra thì mức giá đó được coi là đủ để bù đắp cho các chi phí trong một khoảng thời gian hợp lý.



2.2.1.1 Theo khoản 2 này, các chi phí được tính toán thông thường trên cơ sở sổ sách của nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất là đối tượng đang được điều tra với điều kiện là sổ sách này phù hợp với các nguyên tắc kế toán được chấp nhận rộng rãi tại nước xuất khẩu và phản ánh một cách hợp lý các chi phí đi kèm với việc sản xuất và bán hàng hóa đang được xem xét. Các cơ quan có thẩm quyền sẽ xem xét tất cả các bằng chứng sẵn có về việc phân bổ chi phí, trong đó bao gồm cả các bằng chứng do nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất cung cấp trong quá trình điều tra với điều kiện là việc phân bổ trên thực tế đã được nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất sử dụng trong quá khứ, đặc biệt là sử dụng trong việc xây dựng thời gian khấu hao thích hợp và hạn mức cho phép chi tiêu xây dựng cơ bản và các chi phí phát triển khác. Trừ khi đã được phản ánh trong sự phân bổ chi phí theo qui định tại mục này, các chi phí sẽ được điều chỉnh một cách thích hợp đối với các hạng mục chi phí không thường xuyên được sử dụng để làm lợi cho hoạt động sản xuất trong tương lai và/hoặc hiện tại, hoặc trong trường hợp các chi phí trong thời gian điều tra bị ảnh hưởng bởi các hoạt động khi bắt đầu sản xuất.[6]



2.2.2 Nhằm thực hiện khoản 2, tổng số tiền chi phí cho quản lý, bán hàng và các chi phí chung khác sẽ được xác định dựa trên các số liệu thực tế liên quan đến quá trình sản xuất và bán sản phẩm tương tự theo điều kiện thương mại thông thường của nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất đang bị điều tra đó. Khi số tiền trên không thể xác định theo cách này thì số tiền đó được xác định trên cơ sở như sau:



(i) số tiền thực tế phát sinh và được nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất này chi tiêu trong quá trình sản xuất và bán hàng thuộc nhóm sản phẩm giống hệt tại thị trường của nước xuất xứ hàng hóa;



(ii) bình quân gia quyền của số tiền thực tế phát sinh và được nhà xuất khẩu hoặc sản xuất khác chi tiêu trong quá trình sản xuất và bán sản phẩm tương tự tại thị trường của nước xuất xứ hàng hóa;



(iii) bất kỳ biện pháp hợp lý nào khác với điều kiện là mức lợi nhuận được định ra theo cách đó không được vượt quá mức lợi nhuận các nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất khác thu được khi bán hàng thuộc nhóm sản phẩm giống hệt hàng hóa trên tại thị trường của nước xuất xứ hàng hóa.



2.3 Trong trường hợp không tồn tại mức giá xuất khẩu hoặc cơ quan có thẩm quyền thấy rằng mức giá xuất khẩu không đáng tin cậy vì lý do nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu hoặc một bên thứ ba nào đó có quan hệ với nhau hoặc có thoả thuận về bù trừ, giá xuất khẩu có thể được diễn giải trên cơ sở mức giá khi sản phẩm nhập khẩu được bán lại lần đầu cho một người mua hàng độc lập, hoặc nếu như sản phẩm đó không được bán lại cho một người mua hàng độc lập hoặc không được bán lại theo các điều kiện giống với điều kiện nhập khẩu hàng hóa thì mức giá có thể được xác định trên một cơ sở hợp lý do cơ quan có thẩm quyền tự quyết định.



2.4 Giá xuất khẩu sẽ được so sánh một cách công bằng với giá trị thông thường. Việc so sánh trên được tiến hành ở cùng một khâu thống nhất của quá trình mua bán, thường là tại khâu xuất xưởng và so sánh việc bán hàng vào cùng thời điểm hoặc thời điểm càng giống nhau càng tốt. Đối với từng trường hợp cụ thể, có thể có sự chiếu cố hợp lý về những sự khác biệt có thể ảnh hưởng đến việc so sánh giá, trong đó bao gồm sự khác biệt về điều kiện bán hàng, thuế, dung lượng thương mại, khối lượng, đặc tính vật lý và bất kỳ sự khác biệt nào khác có biểu hiện ảnh hưởng đến việc so sánh giá.[7] Trong trường hợp được đề cập đến tại khoản 3, được phép tính đến các chi phí, bao gồm các loại thuế và phí phát sinh trong giai khoản từ khi nhập khẩu đến lúc bán lại và lợi nhuận thu được. Nếu như sự so sánh giá bị ảnh hưởng trong các trường hợp như trên, các cơ quan có thẩm quyền sẽ xác định trị giá thông thường ở một mức độ thương mại tương đương với mức mà giá thành xuất khẩu được xây dựng hoặc có thể khấu trừ thích hợp như được cho phép tại khoản này. Các cơ quan có thẩm quyền phải cho các bên hữu quan biết rõ những thông tin nào cần thiết phải có để có thể so sánh một cách công bằng và không được phép áp đặt vô lý trách nhiệm đưa ra chứng cớ đối với các bên hữu quan.



2.4.1 Khi sự so sánh được nêu tại khoản 4 đòi hỏi cần có sự chuyển đổi đồng tiền, việc chuyển đổi phải sử dụng tỷ giá tại thời điểm bán hàng[8] với điều kiện là nếu ngoại hối thu được từ việc bán hàng xuất khẩu được bán trên thị trường kỳ hạn thì tỷ giá trong thương vụ bán ngoại hối kỳ hạn đó sẽ được sử dụng. Những biến động của tỷ giá hối đoái sẽ được bỏ qua và trong quá trình điều tra, các cơ quan có thẩm quyền sẽ cho phép các nhà xuất khẩu có được ít nhất 60 ngày để điều chỉnh giá xuất khẩu của họ để phản ánh những bxu hướng bền vững của tỷ giá tiền tệ trong thời gian điều tra.



2.4.2 Thực hiện các qui định điều chỉnh sự so sánh công bằng tại khoản 4, việc xác định có tồn tại biên độ phá giá hay không trong suốt giai đoạn điều tra, thông thường sẽ dựa trên cơ sở so sánh giữa giá trị bình quân gia quyền thông thường với giá bình quân gia quyền của tất cả các giao dịch xuất khẩu có thể so sánh được hoặc thông qua so sánh giữa giá trị thông thường với giá xuất khẩu trên cơ sở từng giao dịch. Giá trị thông thường xác định trên cơ sở bình quân gia quyền có thể được đem so sánh với với giá của từng giao dịch xuất khẩu cụ thể nếu như các cơ quan có thẩm quyền xác định rằng cơ cấu giá xuất khẩu đối với những người mua khác nhau, khu vực khác nhau và thời điểm khác nhau có sự chênh lệch đáng kể và khi có thể đưa ra giải thích về việc tại sao sự khác biệt này không thể được tính toán một cách đầy đủ khi so sánh bằng phương pháp sử dụng bình quân gia quyền so với bình quân gia quyền hoặc giao dịch so với giao dịch.



2.5 Trong trường hợp sản phẩm không được nhập khẩu trực tiếp từ nước xuất xứ hàng hóa mà được xuất khẩu sang lãnh thổ Thành viên nhập khẩu hàng hóa đó từ một nước trung gian, giá của hàng hóa khi được bán từ nước xuất khẩu sang nước nhập khẩu thông thường sẽ được so sánh với mức giá có thể so sánh được tại nước xuất khẩu. Tuy nhiên, có thể đem so sánh với mức giá tại nước xuất xứ hàng hóa, ví dụ như trong trường hợp sản phẩm chỉ đơn thuần chuyển cảng qua nước xuất khẩu hoặc sản phẩm đó không được sản xuất tại nước xuất khẩu hoặc khi không có mức giá tương đương nào có thể đem ra so sánh tại nước xuất khẩu hàng hóa.



2.6 Trong toàn bộ Hiệp định này, khái niệm "sản phẩm tương tự" sẽ được hiểu là sản phẩm giống hệt, tức là sản phẩm có tất cả các đặc tính giống với sản phẩm đang được xem xét, hoặc trong trường hợp không có sản phẩm nào như vậy thì là sản phẩm khác mặc dù không giống ở mọi đặc tính nhưng có nhiều đặc điểm gần giống với sản phẩm được xem xét.



2.7 Điều này không ảnh hưởng gì đến Điều khoản Bổ sung thứ 2 đối với khoản 1, Điều VI tại Phụ lục I của GATT 1994.



Điều 3



Xác định Tổn hại[9]



3.1 Việc xác định tổn hại nhằm thực hiện Điều VI của GATT 1994 phải được tiến hành dựa trên bằng chứng xác thực và thông qua điều tra khách quan về cả hai khía cạnh: (a) khối lượng hàng hóa nhập khẩu được bán phá giá và ảnh hưởng của hàng hóa được bán phá giá đến giá trên thị trường nội địa của các sản phẩm tương tự và (b) hậu quả của việc nhập khẩu này đối với các nhà sản xuất các sản phẩm trên ở trong nước.



3.2 Đối với khối lượng hàng nhập khẩu được bán phá giá, cơ quan điều tra phải xem xét liệu hàng nhập khẩu được bán phá giá có tăng lên đáng kể hay không, việc tăng này có thể là tăng tuyệt đối hoặc tương đối khi so sánh với mức sản xuất hoặc nhu cầu tiêu dùng tại nước nhập khẩu. Về tác động của hàng nhập khẩu được bán phá giá đối với giá, cơ quan điều tra phải xem xét có phải là hàng được bán phá giá đã được giảm đáng kể giá của sản phẩm tương tự tại nước nhập khẩu hay không, hoặc xem xét có đúng là hàng nhập khẩu đó làm ghìm giá ở mức đáng kể hoặc ngăn không cho giá tăng đáng kể, điều lẽ ra đã xảy ra nếu không bán phá giá hàng nhập đó. Không một hoặc một số nhân tố nào trong tất cả các nhân tố trên đủ để có thể đưa đến kết luận mang tính quyết định.



3.3 Khi có nhiều cuộc điều tra chống bán phá giá về cùng một sản phẩm được nhập khẩu từ nhiều nước khác nhau, cơ quan điều tra có thể đánh giá ảnh hưởng một cách tổng hợp của hàng nhập khẩu này chỉ trong trường hợp cơ quan này xác định được rằng: (a) biên độ bán phá giá được xác định đối với hàng nhập khẩu từ mỗi nước vượt quá mức tối thiểu có thể bỏ qua (de minimis) được qui định tại khoản 8 Điều 5 và số lượng hàng nhập khẩu từ mỗi nước không ở mức có thể bỏ qua được; (b) việc đánh giá gộp các ảnh hưởng của hàng nhập khẩu là thích hợp nếu xét đến điều kiện cạnh tranh giữa các sản phẩm nhập khẩu với nhau và điều kiện cạnh tranh giữa các sản phẩm nhập khẩu và sản phẩm tương tự trong nước.



3.4 Việc kiểm tra ảnh hưởng của hàng nhập khẩu được bán phá giá đối với ngành sản xuất trong nước có liên quan phải bao gồm việc đánh giá tất cả các nhân tố và chỉ số có ảnh hưởng đến tình trạng của ngành sản xuất, trong đó bao gồm mức suy giảm thực tế và tiềm ẩn của doanh số, lợi nhuận, sản lượng, thị phần, năng suất, tỉ lệ lãi đối với đầu tư, tỉ lệ năng lực được sử dụng; các nhân tố ảnh hưởng đến giá trong nước, độ lớn của biên độ bán phá giá; ảnh hưởng xấu thực tế hoặc tiềm ẩn đối với chu chuyển tiền mặt, lượng lưu kho, công ăn việc làm, tiền lương, tăng trưởng, khả năng huy động vốn hoặc nguồn đầu tư. Danh mục trên chưa phải là đầy đủ, dù có một hoặc một số nhân tố trong các nhân tố trên cũng không nhất thiết đưa ra kết luận mang tính quyết định.



3.5 Cần phải chứng minh rằng sản phẩm được bán phá giá thông qua các ảnh hưởng của việc bán phá giá như được qui định tại khoản 2 và 4 gây ra tổn hại theo như cách hiểu của Hiệp định này. Việc chứng minh mối quan hệ nhân quả giữa hàng nhập khẩu được bán phá giá và tổn hại đối với sản xuất trong nước được dựa trên việc kiểm tra tất cả các bằng chứng có liên quan trước các cơ quan có thẩm quyền. Các cơ quan có thẩm quyền cũng phải tiến hành điều tra các nhân tố được biết đến khác cũng đồng thời gây tổn hại đến ngành sản xuất trong nước và tổn hại gây ra bởi những nhân tố đó sẽ không được tính vào ảnh hưởng do hàng bị bán phá giá gây ra. Bên cạnh những yếu tố khác, các yếu tố có thể tính đến trong trường hợp này bao gồm: số lượng và giá của những hàng hóa nhập khẩu không bị bán phá giá, giảm sút của nhu cầu hoặc thay đổi về hình thức tiêu dùng, các hành động hạn chế thương mại hoặc cạnh tranh giữa nhà sản xuất trong nước và nước ngoài, phát triển của công nghệ, khả năng xuất khẩu và năng suất của ngành sản xuất trong nước.



3.6 ảnh hưởng của hàng nhập khẩu được bán phá giá sẽ được đánh giá trong mối tương quan với sản xuất trong nước của sản phẩm tương tự nếu như các số liệu có được cho phép phân biệt rõ ràng ngành sản xuất đó trên cơ sở các tiêu chí về qui trình sản xuất, doanh số và lợi nhuận của nhà sản xuất. Nếu như việc phân biệt rõ ràng ngành sản xuất đó không thể tiến hành được, thì ảnh hưởng của hàng nhập khẩu được bán phá giá sẽ được đánh giá bằng cách đánh giá việc sản xuất của một nhóm hoặc dòng sản phẩm ở phạm vi hẹp nhất, trong đó vẫn bao gồm sản phẩm tương tự, để có thể có được các thông tin cần thiết về nhóm sản phẩm này.



3.7 Việc xác định sự đe doạ ra thiệt hại về vật chất hay không phải được tiến hành dựa trên các chứng cứ thực tế và không được phép chỉ căn cứ vào phỏng đoán, suy diễn hoặc một khả năng mơ hồ. Sự thay đổi trong hoàn cảnh có thể gây tổn hại do việc bán phá giá phải trong phạm vi có thể dự đoán được một cách chắc chắn và sẽ diễn ra trong tương lai gần.[10] Khi quyết định xem có tồn tại nguy cơ gây tổn hại vật chất hay không, cơ quan có thẩm quyền phải tiến hành xem xét các nhân tố bao gồm, nhưng không chỉ giới hạn bởi các yếu tố sau:



(i) tỉ lệ gia tăng đáng kể hàng nhập khẩu được bán phá giá vào thị trường trong nước và đó là dấu hiệu cho thấy rất có khả năng nhập khẩu sẽ gia tăng ở mức lớn;



(ii) năng lực sản xuất của nhà xuất khẩu đủ lớn hoặc có sự gia tăng đáng kể trong tương lai gần về năng lực sản xuất của nhà xuất khẩu và đây là dấu hiệu cho thấy có nhiều khả năng sẽ có sự gia tăng đáng kể của hàng xuất khẩu được bán phá giá sang thị trường của Thành viên nhập khẩu sau khi đã tính đến khả năng các thị trường xuất khẩu khác có thể tiêu thụ thêm được một lượng xuất khẩu nhất định;



(iii) liệu hàng nhập khẩu được nhập với mức giá có tác động làm giảm hoặc kìm hãm đáng kể giá trong nước và có thể làm tăng nhu cầu đối với hàng nhập khẩu thêm nữa hay không;



(iv) số thực tồn kho của sản phẩm được điều tra.



Không một nhân tố nào trong số các nhân tố nêu trên tự mình có đủ tính quyết định để dẫn đến kết luận nhưng tổng hợp các nhân tố trên sẽ dẫn đến kết luận là việc tiếp tục xuất khẩu phá giá là tiềm tàng và nếu như không áp dụng hành động bảo hộ thì tổn hại vật chất sẽ xảy ra.



3.8. Trong những trường hợp hàng nhập khẩu bán phá giá đe dọa gây ra thiệt hại, thì việc áp dụng các biện pháp chống bán phá giá sẽ được đặc biệt quan tâm xem xét và quyết định.



Điều 4



Định nghĩa về Ngành sản xuất Trong nước



4.1 Nhằm thực hiện Hiệp định này, khái niệm "ngành sản xuất trong nước" được hiểu là dùng để chỉ tập hợp chung các nhà sản xuất trong nước sản xuất các sản phẩm tương tự hoặc để chỉ những nhà sản xuất có tổng sản phẩm chiếm phần lớn tổng sản xuất trong nước của các sản phẩm đó, trừ các trường hợp:



(i) khi có những nhà sản xuất có quan hệ[11] với nhà xuất khẩu hoặc nhà nhập khẩu hoặc chính họ là người nhập khẩu hàng hóa đang bị nghi là được bán phá giá thì khái niệm "ngành sản xuất trong nước" có thể được hiểu là dùng để chỉ tất cả các nhà sản xuất còn lại;



(ii) trong trường hợp biệt lệ khi lãnh thổ của Thành viên có ngành sản xuất đang được xem xét bị phân chia thành hai hay nhiều thị trường cạnh tranh nhau và các nhà sản xuất tại mỗi thị trường có thể được coi là ngành sản xuất độc lập nếu như (a) các nhà sản xuất tại thị trường đó bán tất cả hoặc hầu như tất cả sản phẩm đang được xem xét tại thị trường đó, và (b) nhu cầu tại thị trường đó không được cung ứng ở mức độ đáng kể bởi các nhà sản xuất sản phẩm đang được xem xét nằm ngoài lãnh thổ trên. Trong trường hợp trên, có thể được coi là có tổn hại ngay cả khi phần lớn ngành sản xuất không bị tổn hại với điều kiện là có sự tập trung nhập khẩu hàng được bán phá giá vào thị trường biệt lập đó và điều kiện nữa là hàng nhập khẩu được bán phá giá gây tổn hại đối với các nhà sản xuất sản xuất ra toàn bộ hoặc gần như toàn bộ lượng sản xuất tại thị trường đó.



4.2 Khi "ngành sản xuất trong nước" được hiểu là các nhà sản xuất tại một khu vực, tức là một thị trường nhất định như được qui định tại khoản 1(ii), thuế chống phá giá sẽ chỉ được đánh[12] vào các sản phẩm được dành riêng để tiêu thụ tại thị trường đó. Nếu như luật pháp của Thành viên nhập khẩu không cho phép việc đánh thuế chống phá giá như trên, Thành viên nhập khẩu hàng có thể đánh thuế chống phá giá một cách không hạn chế chỉ khi (a) các nhà xuất khẩu được tạo cơ hội để có thể đình chỉ việc xuất khẩu với mức giá được coi là phá giá vào khu vực nói trên hoặc bằng một cách khác nào đó có thể đưa ra đảm bảo theo đúng qui định tại Điều 8 đã không đưa ra đảm bảo thích đáng; và (b) thuế chống phá giá trên chỉ đánh vào sản phẩm của nhà sản xuất cụ thể đang cung cấp cho khu vực nói trên.



4.3 Trong trường hợp hai hoặc nhiều nước đã đạt đến mức độ hội nhập theo như qui định tại khoản 8(a) Điều XXIV của Hiệp định GATT và các nước này có được những đặc tính của một thị trường thống nhất, ngành sản xuất trong toàn bộ khu vực đã hội nhập với nhau sẽ được hiểu là ngành sản xuất trong nước được qui định tại khoản 1.



4.4 Các qui định tại khoản 6 của Điều 3 cũng được áp dụng cho Điều này.



Điều 5



Bắt đầu và Quá trình Điều tra Tiếp theo



5.1 Trừ phi có qui định khác tại khoản 6 dưới đây, một cuộc điều tra để quyết định xem thực sự có tồn tại việc bán phá giá không cũng như quyết định mức độ và ảnh hưởng của trường hợp đang bị nghi ngờ là bán phá giá sẽ được bắt đầu khi có đơn yêu cầu bằng văn bản của ngành sản xuất trong nước hoặc của người nhân danh cho ngành sản xuất trong nước.



5.2 Đơn yêu cầu được nhắc đến tại khoản 1 sẽ bao gồm bằng chứng của: (a) việc bán phá giá, (b) sự tổn hại theo đúng cách hiểu của Điều VI của Hiệp định GATT 1994 và được diễn giải tại Hiệp định này và (c) mối quan hệ nhân quả giữa hàng nhập khẩu được bán phá giá và tổn hại đang nghi ngờ xảy ra. Việc khẳng định đơn thuần mà không được cụ thể hóa bằng các bằng chứng xác đáng sẽ không được coi là đáp ứng đủ các điều kiện đề ra tại khoản này. Đơn yêu cầu sẽ bao gồm những thông tin hợp lý mà người nộp đơn có được về các vấn đề sau:



(i) tên của người nộp đơn, mô tả về số lượng và giá trị của sản phẩm tương tự mà người nộp đơn sản xuất trong nước. Khi đơn yêu cầu được làm nhân danh ngành sản xuất trong nước, đơn yêu cầu đó phải chỉ rõ ngành sản xuất mà đơn đó đứng danh bằng cách liệt kê tất cả các nhà sản xuất làm ra sản phẩm tương tự ở trong nước được biết đến (hoặc các hiệp hội của các nhà sản xuất sản phẩm tương tự ở trong nước) và trong phạm vi có thể, mô tả về số lượng và giá trị của sản xuất trong nước của sản phẩm tương tự đó do các nhà sản xuất này làm ra.



(ii) mô tả đầy đủ về sản phẩm bị nghi ngờ là bán phá giá, tên nước xuất xứ của hàng hóa đó, tên của các nhà xuất khẩu và sản xuất hàng hóa đó ở nước ngoài và những nhà nhập khẩu hàng hóa đó.



(iii) thông tin về giá bán hàng hóa đang được xem xét khi được tiêu thụ trong nước tại nước xuất xứ hoặc nước xuất khẩu hàng hóa đó (hoặc, trong trường hợp thích hợp, thông tin về giá bán khi hàng hóa được bán từ nước xuất xứ hoặc xuất khẩu hàng hóa đó sang nước thứ ba hoặc thông tin về giá trị cấu thành của sản phẩm đó) và thông tin về giá xuất khẩu hoặc trong trường hợp thích hợp thì là giá khi sản phẩm đó được bán lại lần đầu tiên cho một người mua độc lập tại lãnh thổ của Thành viên nhập khẩu hàng đó.



(iv) thông tin về diễn tiến khối lượng nhập khẩu của hàng bị nghi là bán phá giá, ảnh hưởng của hàng nhập khẩu này đến giá của hàng hóa tương tự trên thị trường nội địa và hậu quả của hàng nhập khẩu đối với ngành sản xuất trong nước, các thông tin trên được biểu hiện dưới hình thức các nhân tố và chỉ số có quan hệ đến tình trạng của ngành sản xuất trong nước, ví dụ như các nhân tố được liệt kê tại khoản 2 và 4 của Điều 3.



5.3 Các cơ quan có thẩm quyền sẽ điều tra mức độ xác thực và đầy đủ của các bằng chứng được đưa ra tại đơn yêu cầu để quyết định xem liệu đã có được các bằng chứng đầy đủ để bắt đầu quá trình điều tra hay không.



5.4 Một cuộc điều tra sẽ không được bắt đầu căn cứ theo khoản 1 trừ phi các cơ quan có thẩm quyền, trên cơ sở đánh giá mức độ ủng hộ hoặc phản đối[13] với đơn yêu cầu của các nhà sản xuất sản phẩm tương tự trong nước, đã quyết định được rằng đơn đúng là được ngành sản xuất trong nước yêu cầu hoặc được yêu cầu thay mặt cho ngành sản xuất trong nước.[14] Đơn yêu cầu sẽ được coi là được yêu cầu bởi ngành sản xuất trong nước hoặc đại diện cho ngành sản xuất trong nước nếu như đơn này được ủng hộ bởi các nhà sản xuất chiếm tối thiểu 50% tổng sản lượng của sản phẩm tương tự được làm bởi các nhà sản xuất đã bầy tỏ ý kiến tán thành hoặc phản đối đơn yêu cầu đó. Tuy nhiên, điều tra sẽ không được bắt đầu nếu như các nhà sản xuất bầy tỏ ý tán thành điều tra chiếm ít hơn 25% tổng sản lượng của sản phẩm tương tự được ngành sản xuất trong nước làm ra.



5.5 Trừ phi quyết định bắt đầu điều tra đã được đưa ra, các cơ quan có thẩm quyền sẽ tránh không công bố đơn yêu cầu bắt đầu điều tra. Tuy nhiên, sau khi đã nhận được đơn kèm theo các tài liệu hợp lệ và trước khi tiến hành bắt đầu quá trình điều tra, các cơ quan có thẩm quyền phải thông báo cho chính phủ của Thành viên xuất khẩu hàng hóa có liên quan.



5.6 Trong trường hợp đặc biệt, nếu như các cơ quan hữu quan quyết định bắt đầu một cuộc điều tra mặc dù không có đơn yêu cầu tiến hành điều tra của hay đại diện cho ngành sản xuất trong nước, các cơ quan này chỉ tiến hành điều tra khi có đầy đủ các bằng chứng về việc phá giá về thiệt hại và mối quan hệ nhân quả như được qui định tại khoản 2 để biện minh cho hành động bắt đầu điều tra.



5.7 Bằng chứng của việc phá giá và tổn hại sẽ được xem xét đồng thời (a) để đưa ra quyết định có bắt đầu điều tra hay không và (b) trong quá trình điều tra sau đó bắt đầu tính từ ngày không muộn hơn ngày đầu tiên áp dụng các biện pháp tạm thời theo các qui định của Hiệp định này.



5.8 Một đơn yêu cầu như được qui định tại khoản 1 sẽ bị từ chối và cuộc điều tra sẽ bị đình chỉ ngay lập tức nếu như các cơ quan hữu quan thấy rằng không có đầy đủ bằng chứng về việc bán phá giá hoặc về tổn hại đủ để biện minh cho việc triển khai điều tra trường hợp phá giá đó. Các trường hợp điều tra cũng được đình chỉ ngay lập tức trong trường hợp cơ quan có thẩm quyền xác định rằng biên độ bán phá giá không quá mức tối thiểu (de minimis) hoặc trong trường hợp khối lượng hàng nhập khẩu được bán phá giá hoặc tổn hại tiềm ẩn hoặc tổn hại thực tế không đáng kể. Biên độ bán phá giá được coi là không quá mức tối thiểu nếu biên độ đó thấp hơn 2% của giá xuất khẩu. Khối lượng hàng nhập khẩu bán phá giá sẽ được coi là không đáng kể nếu như khối lượng hàng nhập khẩu được bán phá giá từ một nước cụ thể nào đó chiếm ít hơn 3% tổng nhập khẩu các sản phẩm tương tự vào nước nhập khẩu, ngoại trừ trường hợp số lượng nhập khẩu của các sản phẩm tương tự từ mỗi nước có khối lượng nhập dưới 3%, nhưng tổng số các sản phẩm tương tự nhập khẩu từ những nước này chiếm trên 7% nhập khẩu sản phẩm tương tự vào Thành viên nhập khẩu.



5.9 Qui trình điều tra chống bán phá giá không được phép làm cản trở thủ tục thông quan.



5.10 Ngoại trừ những trường hợp đặc biệt, quá trình điều tra phải được kết thúc trong vòng 1 năm và trong mọi trường hợp không được vượt quá 18 tháng kể từ ngày bắt đầu điều tra.



Điều 6



Bằng chứng



6.1 Tất cả các bên liên quan đến một cuộc điều tra chống bán phá giá phải được thông báo về những thông tin mà cơ quan có thẩm quyền yêu cầu và phải có đầy đủ cơ hội để có thể cung cấp bằng văn bản các các bằng chứng mà họ cho rằng có liên quan đến cuộc điều tra đó.



6.1.1 Các nhà xuất khẩu hoặc các nhà sản xuất nước ngoài phải có được ít nhất 30 ngày để trả lời bảng câu hỏi được sử dụng trong điều tra chống bán phá giá[15]. Bất kỳ yêu cầu nào về việc kéo dài thời hạn 30 ngày trên phải được xem xét một cách hợp lý có tính đến nguyên nhân được đưa ra và việc kéo dài thời gian phải được chấp thuận nếu có thể thực thi được.



6.1.2 Nếu như các yêu cầu về bảo vệ thông tin mật cho phép, các bằng chứng được một bên đệ trình bằng văn bản sẽ được cung cấp cho các bên khác cũng quan tâm và tham gia vào quá trình điều tra.



6.1.3 Ngay sau khi bắt đầu tiến hành điều tra, các cơ quan có thẩm quyền phải cung cấp toàn bộ văn bản của đơn yêu cầu điều tra họ nhận được theo như khoản 1 Điều 5 cho các nhà xuất khẩu đã biết[16] và cho cơ quan có thẩm quyền của Thành viên xuất khẩu hàng hóa đó cũng như sẵn sàng cung cấp cho các bên hữu quan khác khi được yêu cầu. Yêu cầu về việc bảo vệ các thông tin bí mật sẽ được cân nhắc một cách hợp lý theo như qui định tại khoản 5.



6.2 Trong suốt quá trình điều tra chống bán phá giá, các bên quan tâm đều phải được tạo đầy đủ cơ hội để có thể bảo vệ lợi ích của mình. Để đạt được điều đó, các cơ quan có thẩm quyền, khi được yêu cầu, phải tạo điều kiện cho tất cả các bên quan tâm được gặp gỡ với các bên có lợi ích trái với họ để các bên có thể trình bầy quan điểm đối lập nhau cũng như những lập luận phản bác quan điểm của nhau. Khi bố trí như trên, cần tính đến yêu cầu bảo vệ thông tin mật và tạo thuận tiện cho các bên. Các bên không có nghĩa vụ buộc phải tham dự cuộc gặp gỡ trên và việc không tham dự cuộc gặp gỡ trên sẽ không làm ảnh hưởng đến lợi ích của bên đó trong vụ điều tra. Các bên quan tâm, khi có đủ lý lẽ biện minh, có quyền được trình bầy các thông tin bằng miệng.



6.3 Các thông tin được trình bầy bằng miệng như được qui định tại khoản 2 chỉ được cơ quan có thẩm quyền xem xét nếu như sau đó các thông tin này được cung cấp dưới dạng văn bản và sẵn sàng cung cấp cho các bên quan tâm như được qui định tại đoạn 1.2.



6.4 Trong trường hợp có thể thực hiện được, các cơ quan có thẩm quyền phải tạo cơ hội kịp thời cho các bên liên quan xem tất cả các thông tin không mang tính bảo mật như qui định tại khoản 5, liên quan đến việc trình bầy trường hợp của họ và được cơ quan có thẩm quyền sử dụng trong quá trình điều tra và để cho họ có thể chuẩn bị trình bầy trên cơ sở các thông tin đó.



6.5 Bất kỳ thông tin nào có tính bảo mật (ví dụ như thông tin khi được công bố sẽ đem lại lợi thế cạnh tranh đáng kể cho các đối thủ cạnh tranh hoặc thông tin khi được công bố sẽ có ảnh hưởng xấu đến người cung cấp thông tin hoặc người mà người cung cấp thông tin thu thập thông tin) hoặc thông tin được các bên có liên quan đến quá trình điều tra cung cấp trên cơ sở bảo mật phải được các cơ quan có thẩm quyền xử lý theo đúng tính chất của thông tin đó khi lý do bảo mật được thấy rõ. Những thông tin này sẽ không được công bố nếu như bên cung cấp thông tin này chưa cho phép một cách cụ thể.[17]



6.5.1 Các cơ quan có thẩm quyền sẽ yêu cầu các bên hữu quan cung cấp các thông tin bảo mật để có được tóm tắt không mang tính bảo mật của những thông tin này. Các bản tóm tắt trên đủ chi tiết để có thể cho phép mọi người hiểu được hợp lý về nội dung của các thông được cung cấp dưới dạng mật. Trong hoàn cảnh đặc biệt, các bên có thể chỉ rõ ràng các thông tin này không thể đem tóm tắt được. Trong trường hợp đặc biệt đó, bên đó phải cung cấp một bản tuyên bố chỉ rõ lý do tại sao không thể tiến hành tóm tắt được.



6.5.2 Nếu như các cơ quan có thẩm quyền thấy rằng yêu cầu được bảo mật thông tin là không hợp lý và nếu như người cung cấp thông tin không muốn phổ biến thông tin đó hoặc không muốn công bố bảng tóm tắt hoặc bảng khái quát các thông tin, cơ quan có thẩm quyền có thể bỏ qua không xem xét các thông tin đó trừ phi các nguồn hợp lý khác cho thấy là các thông tin trên là chính xác.[18]



6.6 Trừ trường hợp được qui định tại khoản 8, các cơ quan có thẩm quyền trong quá trình tiến hành điều tra sẽ tự xác định mức độ hài lòng đối với độ chính xác của các thông tin do các bên hữu quan cung cấp và được lấy làm căn cứ để đưa ra kết luận.



6.7 Để có thể xác minh các thông tin được cung cấp hoặc để thu thập thêm các thông tin chi tiết, cơ quan có thẩm quyền có thể tiến hành điều tra trên lãnh thổ của các Thành viên khác nếu như các công ty liên quan đồng ý và sau khi đã tiến hành thông báo cho đại diện chính phủ của Thành viên và Thành viên này không phản đối việc điều tra đó. Các thủ tục được mô tả tại Phụ lục I sẽ được áp dụng cho tiến trình điều tra được thực hiện trên lãnh thổ của Thành viên khác. Không làm ảnh hưởng đến yêu cầu bảo mật thông tin, các cơ quan có thẩm quyền sẽ công khai hoặc công bố kết quả của các cuộc điều tra này cho các công ty hữu quan và công khai kết quả này cho bên yêu cầu tiến hành điều tra theo đúng với qui định tại khoản 9.



6.8 Trong trường hợp bất kỳ bên nào đó từ chối không cho tiếp cận thông tin hoặc từ chối không cung cấp các thông tin trong một khoảng thời gian hợp lý hoặc ngăn cản đáng kể công tác điều tra, quyết định sơ bộ và quyết định cuối cùng, dù khẳng định hay từ chối, đều có thể được đưa ra dựa trên cơ sở các chứng cứ sẵn có. Các qui định tại Phụ lục II sẽ được tuân thủ khi áp dụng khoản này.



6.9 Trước khi đưa ra quyết định cuối cùng, cơ quan có thẩm quyền sẽ thông báo cho tất cả các bên liên quan về các chứng cứ chủ chốt được xem xét làm cơ sở cho việc quyết định liệu có áp dụng các biện pháp nhất định nào đó không. Việc thông báo trên sẽ được tiến hành đủ sớm để các bên có thể bảo vệ quyền lợi của mình.



6.10 Thông thường, các cơ quan có thẩm quyền sẽ quyết định một biên độ phá giá cho mỗi nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất được biết đến là người cung cấp sản phẩm đang bị điều tra. Trong trường hợp khó có thể đưa ra một quyết định khả thi do liên quan đến quá nhiều nhà xuất khẩu, nhà sản xuất, nhà nhập khẩu hay loại hàng hóa, các cơ quan có thẩm quyền có thể hạn chế phạm vi kiểm tra trong một số lượng hợp lý các bên liên quan hoặc giới hạn sản phẩm bằng cách sử dụng mẫu được chấp nhận theo lý thuyết thống kê trên cơ sở thông tin mà các cơ quan này có được tại thời điểm chọn mẫu hoặc hạn chế ở tỷ lệ lớn nhất của khối lượng hàng xuất khẩu từ nước đang được điều tra mà cơ quan này có thể tiến hành điều tra được.



6.10.1 Việc lựa chọn các nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu, nhà sản xuất hoặc loại sản phẩm được đề cập đến tại khoản này sẽ được tiến hành dựa trên cơ sở tham vấn và sau khi có được sự nhất trí của nhà xuất khẩu, nhà sản xuất hoặc nhà nhập khẩu liên quan.



6.10.2 Trong trường hợp cơ quan có thẩm quyền giới hạn phạm vi điều tra của mình như được qui định tại khoản này, họ vẫn sẽ xác định biên độ phá giá cho mỗi nhà xuất khẩu hoặc mỗi nhà sản xuất dù chưa được lựa chọn ban đầu nhưng đã cung cấp thông tin cần thiết kịp thời để có thể xem xét trong quá trình điều tra. Trừ khi số lượng nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất quá lớn làm cho công tác điều tra đối với từng trường hợp đơn lẻ trở nên quá nặng đối với cơ quan có thẩm quyền và cản trở khả năng cơ quan này có thể hoàn thành quá trình điều tra đúng thời gian đã định. Việc tự nguyện trả lời sẽ được khuyến khích.



6.11 Trong Hiệp định này, "các bên liên quan" bao gồm:



(i) một nhà xuất khẩu hoặc một nhà sản xuất nước ngoài hoặc một nhà nhập khẩu của sản phẩm đang được điều tra hoặc là một hiệp hội ngành nghề, hiệp hội kinh doanh mà đại đa số thành viên của hiệp hội đó là nhà sản xuất, nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu sản phẩm đó;



(ii) chính phủ của Thành viên xuất khẩu; và



(iii) nhà sản xuất các sản phẩm tương tự tại nước nhập khẩu hoặc một hiệp hội thương mại, hiệp hội kinh doanh mà đại đa số thành viên của hiệp hội đó là nhà sản xuất sản phẩm tương tự trên lãnh thổ của Thành viên nhập khẩu.



Danh sách các bên liên quan nêu trên không loại trừ khả năng Thành viên có thể đưa thêm vào các bên liên quan trong nước hoặc nước ngoài khác các bên đã được nêu ở trên.



6.12 Các cơ quan có thẩm quyền phải tạo cơ hội cho người tiêu dùng công nghiệp của hàng hóa đang bị điều tra hoặc cho hiệp hội người tiêu dùng trong trường hợp sản phẩm đó được bán lẻ rộng rãi, cung cấp các thông tin về hành động phá giá, về tổn hại và mối liên hệ nhân quả có liên quan đến quá trình điều tra.



6.13 Các cơ quan có thẩm quyền sẽ cứu xét đầy đủ tới những khó khăn mà các bên liên quan, đặc biệt là đối với các công ty nhỏ gặp phải trong quá trình cung cấp thông tin và phải hỗ trợ khi có thể.



6.14 Các thủ tục được đề ra ở trên không nhằm mục đích ngăn cản cơ quan có thẩm quyền tiến hành nhanh chóng các bước bắt đầu điều tra, đưa ra quyết định sơ bộ và quyết định cuối cùng, dù quyết định đó mang tính khẳng định hay phủ định nghi ngờ ban đầu, hoặc áp dụng các biện pháp tạm thời hay cuối cùng theo đúng các qui định của Hiệp định này.



Điều 7



Các biện pháp tạm thời



7.1 Các biện pháp tạm thời chỉ được phép áp dụng nếu:



(i) việc điều tra đã được bắt đầu theo đúng qui định tại Điều 5, việc này đã được thông báo cho công chúng và các bên hữu quan đã được tạo đầy đủ cơ hội để đệ trình thông tin và đưa ra nhận xét;



(ii) kết luận sơ bộ đã xác nhận rằng có việc bán phá giá và có dẫn đến gây tổn hại cho ngành sản xuất trong nước; và



(iii) các cơ quan có thẩm quyền hữu quan kết luận rằng cần áp dụng các biện pháp này để ngăn chặn tổn hại đang xảy ra trong quá trình điều tra.



7.2 Các biện pháp tạm thời có thể được áp dụng dưới hình thức thuế tạm thời hoặc tối ưu hơn là áp dụng dưới hình thức đảm bảo - bằng tiền đặt cọc hoặc tiền đảm bảo - tương đương với mức thuế chống phá giá được dự tính tạm thời và không được cao hơn biên độ phá giá được dự tính tạm thời. Việc đình chỉ định giá tính thuế cũng là một biện pháp tạm thời thích hợp với điều kiện phải chỉ rõ mức thuế thông thường và mức thuế chống bán phá giá được dự tính và việc tạm đình chỉ định giá tính thuế này cũng phải tuân thủ theo các điều kiện được áp dụng cho các biện pháp tạm thời khác.



7.3 Các biện pháp tạm thời không được phép áp dụng sớm hơn 60 ngày kể từ ngày bắt đầu điều tra.



7.4 Việc áp dụng các biện pháp tạm thời sẽ được hạn chế ở một khoảng thời gian càng ngắn càng tốt và không quá 4 tháng; khi có yêu cầu của các nhà xuất khẩu đại diện cho một tỉ lệ đáng kể khối lượng thương mại liên quan, cơ quan có thẩm quyền có thể quyết định kéo dài thời gian áp dụng không quá 6 tháng. Trong quá trình điều tra, nếu như cơ quan có thẩm quyền kiểm tra xem liệu một mức thuế thấp hơn biên độ phá giá có thể loại bỏ tổn hại phát sinh hay không, khoảng thời gian trên có thể tương ứng là 6 và 9 tháng.



7.5 Khi áp dụng các biện pháp tạm thời, cần tuân thủ các qui định liên quan tại Điều 9.



Điều 8



Cam kết về giá



8.1 Các thủ tục có thể[19] được đình chỉ hoặc chấm dứt mà không áp dụng bất cứ biện pháp tạm thời hay thuế chống phá giá nào nếu như các nhà xuất khẩu có cam kết ở mức thoả đáng sẽ điều chỉnh giá của mình hoặc đình chỉ hành động bán phá giá vào khu vực đang điều tra để các cơ quan có thẩm quyền thấy được rằng tổn hại do việc bán phá giá gây ra đã được loại bỏ. Khoản giá tăng thêm khi cam kết về giá như vậy không được cao hơn mức cần thiết để có thể loại bỏ biên độ bán phá giá. Khuyến khích việc chỉ yêu cầu mức tăng giá thấp hơn biên độ bán phá giá nếu như mức đó đủ để loại bỏ tổn hại đối với sản xuất trong nước.



8.2 Không được phép yêu cầu hoặc chấp nhận cam kết về giá của các nhà xuất khẩu trừ khi các cơ quan có thẩm quyền của Thành viên nhập khẩu đã có quyết định sơ bộ khẳng định có việc bán phá giá và có tổn hại do việc bán phá giá đó gây ra.



8.3 Cam kết giá được đưa ra có thể không được chấp nhận nếu như các cơ quan có thẩm quyền xét thấy việc chấp nhận đó không mang tính thực tế, ví dụ như vì lý do số lượng các nhà xuất khẩu thực sự hoặc tiềm năng quá lớn hoặc vì các lý do khác, bao gồm cả các lý do liên quan đến chính sách chung. Nếu như trường hợp đó xảy ra và nếu như có thể thực hiện được, các cơ quan có thẩm quyền sẽ cho các nhà xuất khẩu biết lý do tại sao họ lại coi việc chấp nhận đề nghị đó là không thích hợp và trong chừng mực có thể sẽ tạo cơ hội cho các nhà xuất khẩu được phản biện.



8.4 Nếu như một cam kết được chấp nhận thì quá trình điều tra về bán phá giá và tổn hại sẽ vẫn được hoàn thành nếu như nhà xuất khẩu muốn và cơ quan có thẩm quyền quyết định như vậy. Trong trường hợp đó, nếu như kết luận là không có việc bán phá giá hoặc không có tổn hại thì cam kết về giá sẽ tự động kết thúc, trừ khi kết luận đó là kết quả của cam kết về giá hiện hành. Trong trường hợp đó, cơ quan có thẩm quyền có thể yêu cầu duy trì cam kết trong một khoảng thời gian hợp lý phù hợp với các qui định của Hiệp định này. Trong trường hợp quyết định khẳng định có việc bán phá giá và tổn hại, cam kết về giá sẽ được tiếp tục phù hợp với các qui định của Hiệp định này.



8.5 Cơ quan có thẩm quyền của Thành viên nhập khẩu có thể gợi ý cho nhà xuất khẩu đưa ra cam kết về giá, tuy nhiên nhà xuất khẩu sẽ không bị buộc phải đưa ra cam kết về giá. Việc các nhà xuất khẩu không đưa ra cam kết hoặc không chấp nhận đề nghị đưa ra cam kết sẽ không ảnh hưởng gì đến việc xem xét trường hợp đó. Tuy nhiên, cơ quan có thẩm quyền có quyền cho rằng đe doạ gây ra tổn hại sẽ lớn hơn nếu như việc bán phá giá hàng nhập khẩu được tiếp tục.



8.6 Các cơ quan có thẩm quyền của Thành viên nhập khẩu có thể yêu cầu các nhà xuất khẩu đã có cam kết giá được chấp nhận phải cung cấp các thông tin định kỳ liên quan đến việc hoàn thành cam kết đó và việc xác định độ xác thực của các thông tin liên quan. Trong trường hợp có vi phạm đối với cam kết, các cơ quan có thẩm quyền tại Thành viên nhập khẩu có quyền sử dụng các thông tin tốt nhất sẵn có để nhanh chóng áp dụng các hành động, trong đó bao gồm áp dụng ngay các biện pháp tạm thời theo đúng các qui định của Hiệp định này. Trong trường hợp đó, thuế ở mức nhất định có thể được áp dụng theo đúng Hiệp định này đối với các sản phẩm được đưa vào tiêu thụ không sớm hơn 90 ngày trước khi bắt đầu áp dụng các biện pháp tạm thời, với điều kiện việc áp dụng hồi tố như vậy không được áp dụng cho hàng được nhập khẩu trước khi có vi phạm cam kết về giá.



Điều 9



Đánh thuế và thu thuế chống bán phá giá



9.1 Quyết định về việc có đánh thuế chống bán phá giá hay không sau khi tất cả các điều kiện để có thể đánh thuế đã được đáp ứng và quyết định xem liệu mức thuế chống bán phá giá sẽ tương đương hay thấp hơn biên độ phá giá sẽ do cơ quan có thẩm quyền của Thành viên nhập khẩu quyết định. Việc đánh thuế trên lãnh thổ của tất cả các Thành viên, không nên cứng nhắc và nên áp dụng mức thuế thấp hơn biên độ phá giá nếu như mức thuế thấp hơn này đủ để loại bỏ tổn hại đối với sản xuất trong nước.



9.2 Khi thuế chống phá giá được áp dụng đối với một sản phẩm nào đó, thuế đó sẽ được thu theo mức hợp lý đối với mỗi trường hợp, trên cơ sở không phân biệt đối xử đối với hàng nhập khẩu từ tất cả các nguồn bị coi là bán phá giá và gây tổn hại, trừ những nguồn đã có cam kết về giá được chấp nhận theo như qui định tại Hiệp định này. Các cơ quan có thẩm quyền sẽ nêu rõ tên các nhà cung cấp sản phẩm liên quan. Tuy nhiên, nếu như có nhiều nhà cung cấp từ cùng một nước và việc nêu tên các nhà sản xuất này không thực hiện được, các cơ quan có thẩm quyền có thể chỉ nêu tên nước liên quan. Nếu như có nhiều nhà cung cấp từ nhiều nước, cơ quan có thẩm quyền có thể nêu tên tất cả các nhà cung cấp hoặc, nếu như không thể làm như vậy, thì nêu tên các nước liên quan.



9.3 Mức thuế chống bán phá giá không được phép vượt quá biên độ bán phá giá được xác định theo như Điều 2.



9.3.1 Khi thuế chống bán phá giá được thu trên cơ sở hồi tố, việc quyết định nghĩa vụ nộp thuế chống bán phá giá cuối cùng sẽ được thực hiện càng nhanh càng tốt, thông thường trong khoảng 12 tháng và trong mọi trường hợp không được vượt quá 18 tháng kể từ sau ngày quyết định được mức thuế chống bán phá giá phải nộp[20]. Tất cả các khoản hoàn thuế đều phải được tiến hành nhanh chóng và trong khoảng thời gian không vượt quá 90 ngày kể từ ngày xác định được nghĩa vụ thuế cuối cùng phải nộp theo như qui định tại đoạn này. Trong mọi trường hợp, nếu như việc hoàn thuế không được thực hiện trong vòng 90 ngày thì các cơ quan có thẩm quyền phải giải thích khi được yêu cầu.



9.3.2 Khi thuế chống bán phá giá được xác định cho giai đoạn tương lai thì phải có qui định hoàn thuế nhanh chóng đối với những khoản nộp vượt quá biên độ phá giá khi được yêu cầu. Việc hoàn thuế đối với khoản thuế nộp vượt quá biên độ phá giá thực tế đó thông thường phải được tiến hành trong vòng 12 tháng và trong mọi trường hợp không được muộn hơn 18 tháng kể từ ngày nhà sản xuất sản phẩm chịu thuế chống bán phá giá đó gửi đơn yêu cầu kèm theo các đầy đủ bằng chứng. Khi đã được cho phép hoàn thuế, việc hoàn thuế thông thường phải được thực hiện trong vòng 90 ngày kể từ ngày đưa ra quyết định đó.



9.3.3 Để quyết định có hoàn thuế hay không và nếu có thì ở mức nào trong trường hợp giá xuất khẩu được xây dựng như được qui định tại khoản 3 Điều 2, các cơ quan có thẩm quyền phải tính đến thay đổi về trị giá thông thường, về chi phí phát sinh giữa giai đoạn nhập khẩu và bán lại hàng hóa, biến động về giá bán lại mà được phản ánh bởi giá bán sau đó, phải tính toán giá xuất khẩu không có khấu trừ đối với mức thuế chống bán phá giá đã nộp nếu như bằng chứng mang tính quyết định đã được cung cấp.



9.4 Trong trường hợp các cơ quan có thẩm quyền hạn chế phạm vi điều tra như qui định tại câu thứ 2 của khoản 10 Điều 6, các mức thuế áp dụng đối với hàng nhập khẩu của các nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất không thuộc diện điều tra không được vượt quá các mức sau:



(i) số bình quân gia quyền của biên độ phá giá của các nhà xuất khẩu và nhà sản xuất được lựa chọn điều tra; hoặc



(ii) trong trường hợp nghĩa vụ nộp thuế chống bán phá giá được tính toán trên cơ sở trị giá thông thường trong tương lai thì không được vượt mức chênh lệch giữa số bình quân gia quyền của biên độ phá giá của các nhà xuất khẩu và nhà sản xuất với giá xuất khẩu của các nhà xuất khẩu và nhà sản xuất không thuộc diện điều tra,



với điều kiện là các cơ quan có thẩm quyền trong quá trình thực thi qui định tại khoản này sẽ không xét tới các trường hợp biên độ bán phá giá bằng không hoặc ở mức không đáng kể hoặc mức biên độ được xác định theo như khoản 8 Điều 6. Các cơ quan có thẩm quyền phải áp dụng mức thuế riêng cho mỗi trường hợp hoặc áp dụng trị giá thông thường đối với các nhà xuất khẩu và nhà sản xuất không thuộc diện điều tra nhưng đã cung cấp các thông tin cần thiết trong quá trình điều tra như đã qui định tại đoạn 10.2 Điều 6.



9.5 Nếu một sản phẩm phải chịu thuế chống bán phá giá tại Thành viên nhập khẩu, các cơ quan có thẩm quyền phải nhanh chóng xem xét lại để có thể quyết định biên độ phá giá cho từng trường hợp đối với những nhà xuất khẩu và nhà sản xuất không tiến hành xuất khẩu hàng hóa đó sang Thành viên nhập khẩu vào thời gian tiến hành điều tra với điều kiện là các nhà xuất khẩu và nhà sản xuất này phải chứng minh được rằng mình không có liên hệ gì với các nhà sản xuất và nhà xuất khẩu của nước xuất khẩu đang phải chịu thuế chống bán phá giá này. Việc xem xét lại nói trên phải được tiến hành trên cơ sở khẩn trương hơn so với việc định thuế thông thường và các thủ tục rà soát tại Thành viên nhập khẩu. Không được phép đánh thuế chống bán phá giá đối với các nhà xuất khẩu và nhà sản xuất đang thuộc diện xem xét lại. Tuy nhiên các cơ quan có thẩm quyền có quyền giữ mức định thuế và/hoặc yêu cầu bảo lãnh để có thể đảm bảo được rằng nếu như việc xem xét lại đưa đến kết quả là phải đánh thuế đối với các nhà xuất khẩu và nhà sản xuất này thì thuế chống bán phá giá đó có thể được thu trên cơ sở hồi tố tính từ ngày bắt đầu việc xem xét lại.



Điều 10



Hồi tố



10.1 Các biện pháp tạm thời và thuế chống phá giá chỉ được áp dụng đối với các sản phẩm được đưa vào tiêu dùng sau thời điểm mà quyết định đưa ra lần lượt theo khoản 1 Điều 7 và khoản 1 Điều 9 bắt đầu có hiệu lực, trừ các trường hợp ngoại lệ được qui định tại Điều này.



10.2 Trong trường hợp đã có xác định thiệt hại chính thức (không phải ở mức độ đe doạ gây thiệt hại hoặc gây ra các chậm trễ trong sự hình thành của một ngành sản xuất trong nước) hoặc trong trường hợp đã có thể xác định chính thức nguy cơ gây thiệt hại, theo đó tác động của các hàng hóa nhập khẩu được bán phá giá, trong trường hợp không có các biện pháp tạm thời, đã dẫn tới việc xác định thiệt hại, thuế chống phá giá sẽ được áp dụng hồi tố đối với toàn bộ thời gian các biện pháp tạm thời, nếu có, có hiệu lực.



10.3 Nếu thuế đối kháng được chính thức đưa ra cao hơn mức thuế suất tạm thời đã nộp hay phải nộp, hoặc mức nộp ước tính tạm thời để đặt cọc thì số chênh lệch sẽ không thu. Nếu mức thuế chính thức thấp hơn mức thuế suất tạm thời đã nộp hay phải nộp, hoặc mức nộp ước tính tạm thời để bảo hộ, thì số chênh lệch sẽ được hoàn lại hay số thuế phải nộp sẽ được tính lại tuỳ từng trường hợp cụ thể.



10.4 Trừ các trường hợp được quy định trong khoản 2, khi đã xác định được nguy cơ gây thiệt hại thực sự hay làm chậm sự phát triển của ngành sản xuất trong nước (mặc dù chưa phát sinh thiệt hại) thì chỉ có thể áp dụng thuế chống phá giá chính thức bắt đầu từ ngày xác định được nguy cơ gây thiệt hại hay thực sự làm chậm sự phát triển của ngành sản xuất, mọi khoản tiền ký quỹ đã thu trong quá trình thực hiện các biện pháp tạm thời sẽ được hoàn lại và tất cả các tài sản bảo đảm sẽ được giải phóng ngay.



10.5 Khi đã chính thức xác định không có dấu hiệu phá giá thì toàn bộ các khoản tiền ký quỹ đã thu trong thời gian áp dụng các biện pháp tạm thời sẽ được hoàn lại và tất cả các tài sản bảo đảm sẽ được giải phóng ngay.



10.6 Mức thuế chống phá giá chính thức sẽ được áp dụng đối với các sản phẩm được đưa vào tiêu dùng trong thời gian không quá 90 ngày trước khi áp dụng các biện pháp tạm thời, khi các cơ quan có thẩm quyền xác định sản phẩm bị bán phá giá sẽ căn cứ vào:



(i) đã có tiền sử bán phá giá gây thiệt hại hoặc người nhập khẩu đã biết hoặc sau này biết rằng người xuất khẩu đang bán phá giá và việc bán phá giá này sẽ gây thiệt hại, và



(ii) thiệt hại do bán phá giá hàng loạt đối với một sản phẩm trong thời gian tương đối ngắn, nếu xét về thời gian cũng như khối lượng hàng nhập khẩu được bán phá giá và các tình huống khác (như sự gia tăng nhanh chóng lượng hàng nhập khẩu trong kho) có thể gây ra các thiệt hại nghiêm trọng đến tác dụng điều chỉnh của thuế chống phá giá sẽ được áp dụng, với điều kiện là các nhà nhập khẩu có liên quan đã có cơ hội để phản biện.



10.7 Các cơ quan có thẩm quyền có thể, sau khi đã bắt đầu thực hiện điều tra, có các biện pháp chẳng hạn như tạm thời ngừng việc định giá, đánh giá tuỳ theo yêu cầu cần thiết để thu thuế chống phá giá hồi tố, theo quy định tại khoản 6, khi các cơ quan này đã có đủ bằng chứng rằng các điều kiện được đưa ra tại khoản này đã được đáp ứng.



10.8 Thuế chống bán phá giá không được áp dụng hồi tố theo khoản 6 đối với các sản phẩm được đưa vào tiêu dùng trước khi bắt đầu tiến hành điều tra.





Điều 11



Thời hạn áp dụng và việc xem xét lại thuế chống phá giá và các cam kết về giá



11.1 Thuế chống phá giá chỉ áp dụng trong khoảng thời gian và mức độ cần thiết để chống lại các trường hợp bán phá giá gây thiệt hại trong nước.



11.2 Các cơ quan có thẩm quyền sẽ xem xét lại yêu cầu tiếp tục duy trì thuế chống phá giá trong trường hợp các cơ quan thấy cần thiết hoặc trên cơ sở đề nghị của các bên có liên quan đã cung cấp các thông tin tích cực đủ để đề nghị xem xét lại[21], với điều kiện là khoảng thời gian hợp lý đã hết kể từ khi chính thức áp dụng thuế chống phá giá. Các bên có liên quan có quyền đề nghị các cơ quan có thẩm quyền xem xét việc tiếp tục áp dụng thuế chống phá giá có cần thiết nữa hay không, liệu các tác hại của việc bán phá giá có còn tiếp diễn hay lại xảy ra hay không nếu thuế chống phá giá được điều chỉnh hay loại bỏ hoàn toàn. Sau khi đã xem xét theo các thủ tục nêu ra tại khoản này, các cơ quan hữu quan có thể quyết định việc áp dụng thuế chống phá giá là không còn cần thiết và loại thuế này sẽ được ngừng áp dụng ngay.



11.3 Ngoại trừ các quy định của khoản 1 và 2, thuế chống phá giá sẽ chấm dứt hiệu lực không muộn hơn 5 năm kể từ khi được áp dụng (hoặc kể từ ngày tiến hành rà soát gần nhất theo khoản 2 nếu việc rà soát này bao gồm cả cả việc xem xét có phá giá hay không và có thiệt hại hay không, hoặc theo khoản này), trừ phi các cơ quan hữu quan ra quyết định rằng việc hết hạn hiệu lực của thuế chống phá giá có thể dẫn tới sự tiếp tục cũng như tái phát sinh hiện tượng phá giá và các thiệt hại[22], sau khi tự tiến hành rà soát trước ngày này trên cơ sở đề nghị hợp lý do ngành sản xuất trong nước hoặc các đề nghị lập theo uỷ nhiệm của các ngành sản xuất này trong một khoảng thời gian hợp lý trước khi hết hạn. Thuế chống phá giá có thể tiếp tục áp dụng tùy theo kết quả của việc rà soát này.



11.4 Các quy định trong Điều 6 về các bằng chứng và thủ tục cần thiết sẽ được áp dụng đối với tất cả các lần rà soát theo Điều này. Các cuộc rà soát này sẽ được tiến hành nhanh gọn và hoàn tất trong vòng 12 tháng tính từ ngày bắt đầu rà soát.



11.5 Các qui định trong Điều này sẽ được áp dụng với các cam kết giá được chấp nhận theo Điều 8.



Điều 12



Thông báo công khai và Giải thích các quyết định



12.1 Khi các cơ quan có thẩm quyền đã có đủ các bằng chứng cần thiết để tiến hành điều tra trường hợp bán phá giá theo Điều 5, Thành viên hay các Thành viên có hàng hóa là đối tượng điều tra bán phá giá và các bên hữu quan khác được các cơ quan điều tra biết là có quyền lợi liên quan tới trường hợp này sẽ nhận được thông báo.



12.1.1 Trong thông báo về việc bắt đầu tiến hành điều tra, hoặc trong một báo cáo riêng[23] sẽ có các thông tin đầy đủ đối với các mục sau:



(i) tên nước hoặc các nước xuất khẩu và sản phẩm có liên quan;



(ii) ngày bắt đầu điều tra;



(iii) cơ sở nghi vấn có trường hợp bán phá giá;



(iv) tóm tắt các yếu tố tạo cơ sở xem xét có thiệt hại;



(v) địa chỉ các cơ quan đại diện của các bên hữu quan;



(vi) hạn thời gian dành cho các bên hữu quan trong việc đóng góp ý kiến.



12.2 Sẽ có thông báo công khai về bất kỳ quyết định tạm thời cũng như chính thức nào, dù là quyết định khẳng định hay phủ quyết, về các quyết định chấp nhận cam kết giá theo Điều 8, cũng như các quyết định kết thúc các thủ tục này và việc chấm dứt thực hiện thuế chống phá giá. Các thông báo này sẽ nêu rõ hoặc thông qua các báo cáo riêng đưa ra đầy đủ chi tiết về các kết quả điều tra cũng như các kết luận đã đạt được về các vấn đề có liên quan tới thực tiễn và pháp lý mà các cơ quan điều tra coi là quan trọng. Các thông báo và báo cáo sẽ được chuyển tới (các) Thành viên là nơi xuất xứ của các sản phẩm có liên quan tới quá trình điều tra và các bên liên quan có quyền lợi liên quan tới trường hợp này.



12.2.1 Thông báo về việc áp dụng các biện pháp tạm thời sẽ nêu rõ, trừ phi nội dung này được đưa trong báo cáo riêng, giải thích cụ thể cho việc xác định một cách tạm thời việc bán phá giá và các thiệt hại và sẽ đề cập tới các thực tế và các luật lệ để giải thích việc chấp nhận hay từ chối các lập luận đề ra. Các thông báo hay báo cáo này, phải tuân thủ yêu cầu về việc bảo vệ thông tin bí mật, sẽ có các nội dung sau:



(i) tên gọi của các công ty cung ứng hàng, hoặc trong trường hợp không có đầy đủ thông tin, tên nước cung cấp;



(ii) mô tả hàng hóa đáp ứng yêu cầu của hải quan;



(iii) mức bán phá giá và giải thích đầy đủ các lý do cho các phương pháp được áp dụng trong việc tính toán và so sánh giá xuất khẩu và giá trị thông thường của sản phẩm theo Điều 2;



(iv) sự xem xét có liên quan tới xác định thiệt hại theo yêu cầu của Điều 3;



(v) các lý do chính đưa đến quyết định cuối cùng.



12.2.2 Thông báo về quyết định hoặc về việc ngừng điều tra đối với các trường hợp được xác định áp dụng thuế chống phá giá hoặc đối với trường hợp chấp nhận cam kết về giá sẽ bao gồm, trừ phi được nêu ra trong báo cáo riêng, tất cả các thông tin về thực tế hay quy định luật pháp và các lý do đưa tới việc thực hiện các biện pháp chính thức hoặc việc chấp nhận cam kết về giá, đồng thời các thông báo công khai này cũng tuân thủ các nguyên tắc bảo mật thông tin. Đặc biệt, thông báo hay báo cáo sẽ đưa ra các thông tin như mô tả trong đoạn 2.1 cũng như các lý do chấp nhận hay từ chối các lập luận hay kiến nghị của nhà xuất khẩu hay nhập khẩu và cơ sở cho bất kỳ quyết định nào được đưa ra theo đoạn 10.2 của Điều 6.



12.2.3 Thông báo công khai về việc chấm dứt hay đình chỉ điều tra dựa trên cơ sở chấp nhận cam kết giá theo Điều 8 sẽ bao gồm, trừ phi được đưa ra trong báo cáo riêng, những thông tin về các phần không cần bảo mật của các cam kết.



12.3 Các qui định của Điều này sẽ được áp dụng với những sửa đổi cầm thiết cho việc bắt đầu cũng như hoàn tất các quá trình rà soát theo Điều 11 và các quyết định được đưa ra theo Điều 10 nhằm áp dụng thuế chống phá giá hồi tố.



Điều 13



Rà soát tư pháp



Các Thành viên mà pháp luật trong nước đã có các quy định về biện pháp chống bán phá giá sẽ tiếp tục duy trì các thủ tục tố tụng và xét xử tư pháp và trọng tài cũng như hành chính nhằm mục đích rà soát các biện pháp hành chính có liên quan tới các quyết định cuối cùng theo nội dung của Điều 11. Các hình thức toà án hay các thủ tục này sẽ được đặt độc lập đối với các cơ quan hữu quan chịu trách nhiệm đưa ra các quyết định hoặc rà soát có liên quan.



Điều 14



Hành động chống bán phá giá nhân danh một nước thứ ba



14.1 Đơn đề nghị chống bán phá giá nhân danh nước thứ ba sẽ do các cơ quan có thẩm quyền của nước thứ ba này thực hiện.



14.2 Đơn đề nghị này cần phải đi kèm với các thông tin hỗ trợ liên quan tới giá cho thấy các hàng hóa nhập khẩu đang được bán phá giá và các thông tin chi tiết cho thấy trường hợp nghi ngờ bán phá giá này đang gây thiệt hại đến ngành sản xuất trong nước của nước thứ ba này. Chính phủ của nước thứ ba sẽ cung cấp các hỗ trợ cần thiết cho cơ quan có thẩm quyền của nước nhập khẩu trong chừng mực có thể để thu thập thông tin mà nước này quan tâm.



14.3 Trong quá trình xem xét đơn đề nghị này, các cơ quan có thẩm quyền của nước nhập khẩu sẽ xem xét các tác động của hành động bán phá giá đã được xác định tới ngành sản xuất có liên quan của nước thứ ba, nghĩa là việc đánh giá thiệt hại không chỉ thực hiện đối với các tác động của trường hợp bán phá giá đối với xuất khẩu của ngành này sang nước nhập khẩu hay thậm chí tác động đến toàn bộ xuất khẩu của ngành đó.



14.4 Quyết định có tiến hành xem xét vụ việc hay không phụ thuộc hoàn toàn vào nước nhập khẩu. Nếu nước nhập khẩu quyết định rằng nước này đã sẵn sàng thực hiện các biện pháp chống phá giá thì chính nước nhập khẩu là nước sẽ phải trình lên Hội đồng Thương mại Hàng hóa xin chấp thuận đối với các biện pháp đó.



Điều 15



Các Thành viên đang phát triển



Cũng thừa nhận rằng các Thành viên phát triển cần phải có các chiếu cố đặc biệt đến tình hình đặc thù của các Thành viên đang phát triển trong khi xem xét các đơn đề nghị về các biện pháp chống bán phá giá theo các quy định của Hiệp định này. Các biện pháp điều chỉnh mang tính chất phối hợp xây dựng sẽ được đem ra xem xét trước khi áp dụng thuế chống phá giá nếu biện pháp này ảnh hưởng tới lợi ích cơ bản của các Thành viên đang phát triển.



Phần II



Điều 16



Uỷ ban về Thực hành Chống bán Phá giá



16.1 Uỷ ban về Thực hành Chống bán Phá giá sẽ được thành lập theo Hiệp định này (được nhắc tới với tên gọi Uỷ ban trong Hiệp định này) bao gồm đại diện của từng Thành viên. Uỷ ban sẽ bầu ra Chủ tịch và sẽ nhóm họp ít nhất 2 lần trong 1 năm và trong các trường hợp khác, theo đề xuất của bất kỳ Thành viên nào theo đúng các quy định trong Hiệp định. Uỷ ban sẽ thực hiện các trách nhiệm được giao theo tinh thần của Hiệp định hoặc do các Thành viên giao và Uỷ ban sẽ dành cơ hội để các Thành viên tham vấn về các vấn đề liên quan tới hoạt động của Hiệp định và việc thực hiện các mục tiêu của Hiệp định này. Ban Thư ký WTO sẽ là ban thư ký cho Uỷ ban.



16.2 Uỷ ban sẽ thành lập các cơ quan trực thuộc nếu cần thiết.



16.3 Trong quá trình thực hiện các chức năng của mình, Uỷ ban và các cơ quan trực thuộc sẽ tham vấn và tìm thông tin từ các nguồn được coi là thích hợp. Tuy nhiên, trước khi Uỷ ban hay cơ quan trực thuộc tìm kiếm các thông tin từ các nguồn thuộc quyền tài phán của một Thành viên, cơ quan này sẽ thông báo cho Thành viên liên quan và xin sự đồng ý của Thành viên hoặc doanh nghiệp cần tham vấn.



16.4 Các Thành viên sẽ báo cáo ngay lên Uỷ ban các biện pháp chống bán phá giá tạm thời hay chính thức do họ áp dụng. Các báo cáo này sẽ được giữ tại Ban Thư ký để tiện cho việc xem xét của các Thành viên khác. Nửa năm một lần, các Thành viên cũng sẽ đệ trình các báo cáo về các hành động chống bán phá giá được đưa ra trong vòng 6 tháng vừa qua. Báo cáo 6 tháng này sẽ được nộp theo một mẫu tiêu chuẩn được các nước nhất trí.



16.5 Mỗi Thành viên sẽ thông báo với Uỷ ban (a) cơ quan có thẩm quyền nào của mình có quyền bắt đầu và thực hiện điều tra được nói đến tại Điều 5 và (b) các thủ tục trong nước của mình điều chỉnh việc bắt đầu và tiến hành những điều tra này.



Điều 17



Tham vấn và giải quyết tranh chấp



17.1 Trừ các trường hợp được quy định khác đi dưới đây, Bản Ghi nhớ về Giải quyết Tranh chấp sẽ được áp dụng trong quá trình trao đổi tham vấn và giải quyết các tranh chấp theo Hiệp định này.



17.2 Các Thành viên sẽ có sự chiếu cố xem xét và dành đủ cơ hội để trao đổi tham vấn về những đề xuất của Thành viên khác đối với các vấn đề có liên quan tới hoạt động của Hiệp định.



17.3 Nếu bất kỳ Thành viên nào thấy rằng các lợi ích của nước này, trực tiếp hay gián tiếp theo Hiệp định này, đang bị mất đi hay giảm đi hoặc việc thực hiện các mục đích đang bị cản trở do Thành viên hay các Thành viên khác, thì Thành viên này, nhằm mục đích đạt được một giải pháp thỏa mãn cả hai bên về vấn đề này, sẽ gửi bằng văn bản các câu hỏi tham vấn tới nước hay các Thành viên có liên quan. Các Thành viên sẽ dành thời gian xem xét cần thiết đối với các đề nghị tiến hành trao đổi tham vấn từ một Thành viên khác.



17.4 Nếu Thành viên đưa ra đề nghị tham vấn xét thấy việc tham vấn thực hiện theo khoản 3 không đạt được một giải pháp được các bên cùng nhất trí và nếu cơ quan hữu quan của nước nhập khẩu đã áp dụng thuế chống bán phá giá hoặc chấp nhận cam kết về giá, Thành viên đó sẽ có thể đưa vấn đề này ra Cơ quan Giải quyết Tranh chấp (DSB). Khi một biện pháp tạm thời có ảnh hưởng đáng kể và Thành viên đề nghị tham vấn xét thấy biện pháp này được thực hiện đi ngược lại với các quy định trong khoản 1 Điều 7, thì Thành viên đó có thể đưa vấn đề này ra DSB.



17.5 Theo yêu cầu của bên khiếu nại, DSB sẽ thành lập một Hội đồng để xem xét vấn đề này dựa trên:



(i) văn bản trình bầy của Thành viên kiến nghị chỉ ra rằng các lợi ích của Thành viên này, trực tiếp hay gián tiếp, theo Hiệp định đang bị mất đi hay bị giảm đi hay việc đạt được các mục tiêu của Hiệp định đang bị cản trở, và



(ii) các thông tin trình bày về thực tế phù hợp với các thủ tục trong nước đối với các cơ quan có thẩm quyền của Thành viên nhập khẩu.



17.6 Khi xem xét các vấn đề được nêu ra trong khoản 5:



(i) trong quá trình đánh giá các sự kiện thực tế có liên quan tới nội dung này, ban hội thẩm sẽ xác định xem các bằng chứng thực tế được đưa ra có đúng đắn hay không và liệu việc đánh giá các bằng chứng thực tế này có công bằng và khách quan hay không. Nếu các bằng chứng thực tế này công bằng và khách quan, ngay cả khi ban hội thẩm đã có kết luận khác thì quá trình thẩm định đánh giá này sẽ không bị thay đổi;



(ii) ban hội thẩm sẽ giải thích các quy định có liên quan của Hiệp định phù hợp với các quy tắc tập quán trong việc giải thích công pháp quốc tế. Khi ban hội thẩm thấy các quy định của Hiệp định có thể được giải thích theo ít nhất hai cách đều có thể được chấp nhận thì ban hội thẩm sẽ xác nhận biện pháp của cơ quan có thẩm quyền là phù hợp với Hiệp định nếu biện pháp này dựa vào một trong các cách giải thích có thể được chấp nhận theo Hiệp định.



17.7 Các thông tin mật cung cấp cho ban hội thẩm sẽ không được tiết lộ mà không có sự cho phép của cá nhân, tổ chức hay cơ quan cung cấp các thông tin đó. Khi ban hội thẩm yêu cầu cung cấp thông tin, nhưng các thông tin này nếu không có sự chấp thuận thì ban hội thẩm không được tiết lộ, thì bản tóm tắt không mật của các thông tin này sẽ có thể được ban hội thẩm cung cấp sau khi đã có sự chấp thuận của cá nhân, tổ chức hay cơ quan có thẩm quyền của nước hữu quan.





Phần III



Điều 18



Điều khoản cuối cùng



18.1 Theo giải thích của Hiệp định này, các nước không được thực hiện các biện pháp chống bán phá giá đối với hàng xuất khẩu của Thành viên khác trừ phi các biện pháp này tuân thủ theo các quy định của GATT 1994.[24]



18.2 Các nước không được có các bảo lưu đối với các quy định của Hiệp định này nếu không được sự đồng ý chấp thuận của các Thành viên khác.



18.3 Theo quy định trong các đoạn 3.1 và 3.2, các quy định của Hiệp định này sẽ được áp dụng trong quá trình điều tra và rà soát các biện pháp đang áp dụng trong thời điểm hiện tại được bắt đầu theo đúng các đơn đề nghị đã được gửi kể từ ngày Hiệp định WTO có hiệu lực đối với Thành viên đó.



18.3.1 Đối với việc tính toán biên độ bán phá giá trong các thủ tục hoàn trả theo khoản 3 Điều 9, các nguyên tắc sử dụng trong lần xác định hay lần rà soát trường hợp bán phá giá gần nhất sẽ được áp dụng.



18.3.2 Để phục vụ cho khoản 3 Điều 11, các biện pháp chống bán phá giá hiện có sẽ được coi là áp dụng vào thời điểm không muộn hơn ngày Hiệp định WTO có hiệu lực đối với Thành viên, trừ trường hợp pháp luật trong nước của Thành viên có hiệu lực vào thời điểm đó đã đưa ra điều khoản tương tự như đã được quy định trong khoản đó.



18.4 Các Thành viên sẽ thực hiện các bước cần thiết, chung hay theo các trường hợp cụ thể, để đảm bảo sự phù hợp của các pháp luật, qui định và các thủ tục hành chính của nước này theo các quy định trong Hiệp định khi áp dụng đối với các Thành viên, không muộn hơn thời điểm Hiệp định WTO có hiệu lực đối với Thành viên đó.



18.5 Các Thành viên sẽ thông báo cho Uỷ ban về các thay đổi về pháp luật và qui định của mình có liên quan tới Hiệp định này và về việc thực hiện các luật lệ và quy định đó.



18.6 Uỷ ban sẽ rà soát hàng năm quá trình triển khai, áp dụng và thực hiện Hiệp định này đặc biệt là việc thực hiện các mục tiêu chính. Uỷ ban sẽ thông báo hàng năm cho Hội đồng Thương mại Hàng hóa tiến triển thực hiện Hiệp định trong từng kỳ rà soát.



18.7 Các Phụ lục của Hiệp định sẽ là bộ phận không tách rời của Hiệp định.




Phụ lục 1



Thủ tục điều tra tại chỗ theo khoản 7 Điều 6



1. Sau khi bắt đầu tiến hành điều tra, cơ quan có thẩm quyền của Thành viên xuất khẩu và các doanh nghiệp có liên quan sẽ được thông báo về ý định tiến hành các cuộc điều tra tại chỗ.



2. Nếu trong trường hợp đặc biệt quá trình điều tra sẽ bao gồm các chuyên gia phi chính phủ tham gia vào nhóm điều tra, doanh nghiệp và các cơ quan có thẩm quyền của Thành viên xuất khẩu sẽ được thông báo về việc này. Các chuyên gia phi chính phủ sẽ sẽ phải chịu các chế tài cần thiết nếu họ vi phạm nguyên tắc bảo mật thông tin.



3. Theo các thủ tục chính thức, việc gặp các doanh nghiệp ở các Thành viên xuất khẩu cần phải có sự đồng ý chính thức của doanh nghiệp có liên quan.



4. Khi các doanh nghiệp có liên quan đã nhất trí, cơ quan điều tra sẽ thông báo cho cơ quan có thẩm quyền của Thành viên xuất khẩu tên và địa chỉ của các doanh nghiệp mà cơ quan này muốn tới và ngày tháng dự kiến như đã nhất trí.



5. Việc gặp các doanh nghiệp cần phải được thông báo trước.



6. Việc gặp các doanh nghiệp để giải thích về bảng câu hỏi chỉ được thực hiện trên cơ sở doanh nghiệp đề nghị. Cuộc viếng thăm này sẽ được thực hiện nếu (a) cơ quan có thẩm quyền của nước nhập khẩu thông báo cho đại diện của Thành viên muốn điều tra và (b) Thành viên này không phản đối.



7. Do mục đích của việc điều tra tại chỗ nhằm kiểm tra các số liệu đã được cung cấp hoặc để thu thập thêm thông tin chi tiết, vì vậy việc viếng thăm này nên được thực hiện sau khi đã có trả lời đối với bảng câu hỏi trừ phi doanh nghiệp có liên quan không nhất trí và chính phủ của nước xuất khẩu đã được thông báo của cơ quan điều tra về cuộc viếng thăm này và nếu chính phủ nước này không phản đối. Thêm vào đó, cần phải lập thành thủ tục chính thức theo đó các doanh nghiệp được viếng thăm cần được thông báo về nội dung các thông tin cần được kiểm tra hoặc cung cấp bổ sung, mặc dù vậy điều này không loại trừ các yêu cầu cung cấp thêm các thông tin chi tiết được đặt ra tại chỗ trên cơ sở những thông tin đã có được.



8. Các câu hỏi và đề nghị do các cơ quan có thẩm quyền hoặc doanh nghiệp của Thành viên xuất khẩu đặt ra và có ý nghĩa cốt yếu đối với quá trình điều tra tại chỗ cần được trả lời, nếu có thể, trước khi viếng thăm.



Phụ lục II

Các thông tin tốt nhất có được theo các điều kiện của khoản 8 Điều 6



1. Ngay khi bắt đầu quá trình điều tra, cơ quan điều tra sẽ xác định các thông tin yêu cầu từ các bên hữu quan, hình thức trả lời các yêu cầu thông tin đó từ các bên hữu quan. Các cơ quan này cũng sẽ đảm bảo đã cho bên hữu quan biết rằng trong khoảng thời gian hợp lý mà bên hữu quan không cung cấp các thông tin cần thiết thì cơ quan điều tra sẽ ra các quyết định dựa vào các thông tin thực tế mà các cơ quan này có được, bao gồm các thông tin trong đơn đề nghị tiến hành điều tra của ngành sản xuất trong nước.



2. Cơ quan có thẩm quyền có thể đề nghị bên hữu quan trả lời bằng một phương tiện nào đó (ví dụ như qua băng từ) hay qua các ngôn ngữ máy tính. Trong trường hợp đề nghị như vậy, cơ quan này cần phải xem xét khả năng hợp lý của bên hữu quan trong việc trả lời thông qua phương tiện được yêu cầu hay qua ngôn ngữ máy tính và cơ quan này không nên yêu cầu bên hữu quan trả lời thông qua hệ thống máy tính khác với hệ thống mà bên hữu quan này đang sử dụng. Cơ quan có thẩm quyền không nên yêu cầu bên hữu quan sử dụng hình thức trả lời bằng máy tính nếu như bên hữu quan không lưu trữ trên máy tính và nếu trả lời như vậy có thể gây ra một một gánh nặng bất hợp lý với bên hữu quan, chẳng hạn như yêu cầu này gây ra các chi phí và khó khăn không hợp lý.



3. Tất cả các thông tin có thể kiểm chứng được, được cung cấp phù hợp để có thể sử dụng trong quá trình điều tra mà không gây ra các khó khăn không cần thiết, được cung cấp đúng hạn và trong trường hợp có thể, theo các phương tiện hay ngôn ngữ máy tính do cơ quan có thẩm quyền yêu cầu, cần phải được đưa vào xem xét trong quá trình điều tra. Nếu bên hữu quan này không trả lời theo hình thức yêu cầu hay ngôn ngữ máy tính như yêu cầu nhưng các cơ quan có thẩm quyền nhận thấy các điều kiện về hoàn cảnh như quy định trong khoản 2 đã được thoả mãn, thì việc không trả lời theo hình thức hay ngôn ngữ máy tính như yêu cầu sẽ không được xem là gây cản trở lớn tới quá trình điều tra.



4. Trong trường hợp các cơ quan có thẩm quyền không có khả năng xử lý các thông tin được cung cấp qua các phương tiện cụ thể (như qua băng từ), các thông tin đó cần được cung cấp bằng văn bản hoặc các hình thức khác mà cơ quan này chấp nhận.



5. Mặc dù các thông tin cung cấp có thể không hoàn thiện, nhưng điều này không có nghĩa là các cơ quan có thẩm quyền lại xem nhẹ các thông tin này nếu bên hữu quan đã làm hết khả năng của mình.



6. Sau khi đã xem xét tới thời hạn cần thiết trong quá trình điều tra, nếu các bằng chứng hoặc các thông tin không được chấp nhận, bên cung cấp thông tin cần nhận được thông báo lý do về việc này và cần được cho cơ hội cung cấp các giải thích trong khoảng thời gian hợp lý. Nếu các lời giải thích này vẫn chưa được các cơ quan có thẩm quyền coi là thoả mãn thì các lý do cho việc không chấp nhận các bằng chứng hoặc thông tin cần phải được nêu ra trong bất kỳ quyết định chính thức nào.



Nếu cơ quan có thẩm quyền phải đưa ra các kết luận, bao gồm cả đối với các kết luận về giá trị thông thường, dựa trên cơ sở các thông tin từ các nguồn tin thứ cấp bao gồm cả thông tin được nêu trong đơn đề nghị tiến hành điều tra, thì việc sử dụng các thông tin này cần phải được thực hiện thận trọng. Trong các trường hợp đó, nếu có thể, các cơ quan có thẩm quyền cần phải kiểm tra các thông tin này thông qua các nguồn tin độc lập có thể có, chẳng hạn như các bảng giá đã công bố, số liệu thống kê chính thức, tờ khai hải quan và từ các thông tin thu được từ các bên liên quan khác trong quá trình điều tra. Mặc dù vậy, rõ ràng rằng nếu bên hữu quan không hợp tác và dấu diếm thông tin thì tình trạng này có thể gây ra kết quả bất lợi cho bên hữu quan so với trường hợp bên này hợp tác với các cơ quan có thẩm quyền.




[1] Từ "bắt đầu" được sử dụng trong Hiệp định này mang ý nghĩa là một hành động mang tính thủ tục theo đó một Thành viên chính thức bắt đầu một cuộc điều tra như được qui định tại Điều 5.

[2] Số lượng sản phẩm tương tự được dành để tiêu thụ trong nước tại nước xuất khẩu thông thường được coi là đủ lớn để xác định giá trị thông thường nếu doanh số bán hàng đó chiếm 5% hoặc cao hơn số lượng sản phẩm đang xem xét đó bán vào nước nhập khẩu với điều kiện là tỷ lệ thấp hơn cũng phải được chấp nhận nếu như có bằng chứng cho thấy rằng tiêu thụ trong nước ở tỷ lệ thấp như vậy vẫn đủ lớn để có thể so sánh một cách hợp lý.

[3] Khi cụm từ "các cơ quan có thẩm quyền" được sử dụng trong Hiệp định này, cụm từ đó được hiểu là các cơ quan có đủ thẩm quyền ở mức phù hợp.

[4] Thông thường, khoảng thời gian kéo dài là 1 năm và trong mọi trường hợp không được ít hơn 6 tháng.

[5] Việc bán hàng dưới mức chi phí cho từng sản phẩm được thực hiện với khối lượng đáng kể khi các cơ quan có thẩm quyển xác định rằng mức giá bán bình quân gia quyền của giao dịch đang được xem xét để quyết định giá trị thông thường ở mức thấp hơn chi phí bình quân gia quyền cho mỗi sản phẩm, hoặc khi xác định rằng khối lượng bán dưới mức chi phí cho từng sản phẩm không nhỏ hơn 20% khối lượng được bán trong giao dịch đang được xem xét để xác định giá trị thông thường.

[6] Việc điều chỉnh chi phí cho phù hợp với hoạt động khi bắt đầu sản xuất sẽ phản ánh các chi phí vào thời điểm cuối của giai đoạn bắt đầu sản xuất hoặc, trong trường hợp giai đoạn bắt đầu sản xuất dài hơn giai đoạn tiến hành điều tra, thì phải phản ánh được các chi phí gần đó nhất mà các cơ quan có thẩm quyền có thể xem xét trong quá trình điều tra.

[7] Các nhân tố trên có khả năng trùng lắp nhau, do đó cơ quan có thẩm quyền phải đảm bảo không lặp lại những điều chỉnh đã thực hiện theo như qui định tại điều này.

[8] Thông thường, ngày bán hàng có thể là ngày của hợp đồng, ngày của đơn mua hàng, ngày xác nhận đơn đặt hàng hoặc ngày của hóa đơn, tuỳ theo ngày nào là ngày thực tế tạo lập nên điều kiện bán hàng.

[9] Theo Hiệp định này, ngoại trừ những chỗ được chỉ rõ khác đi, khái niệm "tổn hại" được hiểu là thiệt hại vật chất đối với một ngành sản xuất trong nước, đe dọa gây ra thiệt hại vật chất với một ngành sản xuất trong nước hoặc làm chậm quá trình hình thành một ngành sản xuất và được diễn giải theo đúng các qui định của Điều này.

[10] Một ví dụ, mặc dù không phải là duy nhất, là khi có được lý do mang tính thuyết phục rằng, trong tương lai gần, sẽ có sự gia tăng đáng kể của hàng hóa nhập khẩu tại mức giá được bán phá giá.



[11] Nhằm thực hiện khoản này, các nhà sản xuất được coi là có quan hệ với nhà xuất khẩu hoặc nhà nhập khẩu chỉ trong các trường hợp sau: (a) một trong số họ bị bên kia kiểm soát trực tiếp hoặc gián tiếp; hoặc (b) cả hai bị một người thứ ba kiểm soát trực tiếp hoặc gián tiếp; hoặc (c) họ cùng nhau kiểm soát trực tiếp hoặc gián tiếp một người thứ ba, với điều kiện là có lý do để tin hoặc nghi ngờ rằng mối quan hệ đó có thể làm cho nhà sản xuất có liên quan cư xử khác với các nhà sản xuất không có mối quan hệ như vậy. Trong khoản này, một bên được coi là kiểm soát bên kia khi bên kiểm soát có khả năng pháp lý thực tế hạn chế hoặc chỉ đạo bên bị kiểm soát.



[12] Khi được sử dụng trong Hiệp định này, "đánh thuế" được hiểu là việc định mức hoặc thu một khoản thuế một cách dứt khoát hoặc mang tính pháp lý cuối cùng.

[13] Trong trường hợp các ngành sản xuất phân tán bao gồm số lượng quá lớn các nhà sản xuất, các cơ quan có thẩm quyền có thể quyết định mức độ ủng hộ hoặc phản đối với đơn đó bằng cách sử dụng kỹ thuật chọn mẫu thống kê hợp lý.

[14] Các Thành viên nhận thức được rằng tại lãnh thổ của một số Thành viên nhất định, nhân công của các nhà sản xuất trong nước làm các sản phẩm tương tự hoặc đại diện của các nhân công này có thể tự nộp đơn yêu cầu hoặc ủng hộ đơn yêu cầu điều tra theo như qui định của khoản 1.

[15] Nhìn chung, thời gian tối đa cho các nhà xuất khẩu được tính từ ngày nhận được bảng câu hỏi và trong hiệp định này các nhà xuất khẩu được coi là đã nhận được bảng câu hỏi một tuần sau khi bảng câu hỏi đó được gửi cho người nhận hoặc được chuyển cho cơ quan đại diện ngoại giao thích hợp của Thành viên xuất khẩu hàng hóa hoặc trong trường hợp Thành viên đó của WTO là một lãnh thổ hải quan độc lập thì là cơ quan đại diện chính thức cho lãnh thổ xuất khẩu hàng hóa đó.

[16] Các bên hiểu rằng trong trường hợp có quá nhiều nhà xuất khẩu, đơn yêu cầu điều tra đầy đủ dưới dạng văn bản sẽ chỉ được cung cấp cho các cơ quan có thẩm quyền của nước xuất khẩu hoặc của hiệp hội thương mại có liên quan.

[17] Các Thành viên nhận thức được rằng tại lãnh thổ của một số Thành viên nhất định, việc cung cấp thông tin có thể được yêu cầu tuân thủ theo lệnh bảo vệ thông tin được xác định một cách chặt chẽ.

[18] Các Thành viên nhất trí rằng không được phép từ chối các yêu cầu bảo mật thông tin một cách tuỳ tiện.

[19] Từ "có thể" không được phép hiểu có nghĩa là cho phép vừa tiếp tục các thủ tục, vừa áp dụng cam kết về giá trừ phi được qui định khác đi tại khoản 4.

[20] Việc tuân thủ qui định về thời hạn được nêu tại khoản này và tiểu khoản 3.2 có thể không thực hiện được khi sản phẩm đang được xem xét phải chịu các thủ tục rà soát tư pháp.

[21] Việc quyết định nghĩa vụ phải thanh toán thuế chống phá giá cuối cùng như được qui định tại khoản 3, điều 9 bản thân nó không có nghĩa là việc xem xét lại theo như cách hiểu của Điều này.

[22] Trong trường hợp thuế chống phá giá được thu trên cơ sở hồi tố, nếu như kết luận của quá trình điều tra gần nhất theo thủ tục được qui định tại tiểu đoạn 3.1 của Điều 9 là sẽ không đánh thuế, thì bản thân đó không buộc các cơ quan có thẩm quyền phải chấm dứt áp dụng thuế có thời hạn.

[23] Trong trường hợp các cơ quan có thẩm quyền cung cấp thông tin và diễn giải theo đúng qui định Điều này dưới dạng một báo cáo riêng thì các cơ quan này phải đảm bảo rằng công chúng có khả năng tiếp cận được tới bản báo cáo đó.

[24] Điều này không ngăn cản việc có hành động theo như các điều khoản khác của GATT 1994 trong trường hợp thích hợp